"Đề cương về văn hóa Việt Nam" năm 1943 - Nền tảng lý luận và động lực phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam

27.02.2023
Nguyễn Văn Hùng
Cách đây 80 năm, vào tháng 2/1943, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua bản Đề cương về văn hóa Việt Nam, một văn kiện quan trọng do Tổng Bí thư Trường Chinh chấp bút soạn thảo. Ra đời trong bối cảnh của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đề cương là cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta về văn hóa, xác lập văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa).

"Đề cương về văn hóa Việt Nam" năm 1943 - Nền tảng lý luận và động lực  phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam

Chương trình Tọa đàm 80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam 

Thời điểm và bối cảnh ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam đã cho thấy tư duy, tầm nhìn và sự quan tâm sâu sắc của Đảng ta trong phát triển văn hóa. Từ điểm khởi nguồn này, trải qua tiến trình lịch sử với rất nhiều biến động, việc phát triển các giá trị mang tính cương lĩnh của Đề cương vẫn giữ nguyên sức sống và có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Vì vậy, ngày hôm nay, tại Hội thảo quan trọng này, chúng ta sẽ cùng nhìn lại và khẳng định nền tảng lý luận, giá trị, nguyên tắc cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam, từ đó tìm ra những định hướng, giải pháp góp phần khơi dậy khát vọng cống hiến, tạo động lực chấn hưng văn hóa, phát triển toàn diện con người Việt Nam trong bối cảnh mới nhằm hiện thực hóa Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, triển khai có hiệu quả Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 và cụ thể hóa lộ trình triển khai Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030.


1. Giá trị lý luận của “Đề cương về văn hóa Việt Nam”

Ngay trong phần mở đầu, với việc xác định rõ phạm vi và nội hàm của văn hóa bao gồm ba thành tố cơ bản là tư tưởng, học thuật và nghệ thuật, Đề cương về văn hóa Việt Nam thể hiện tư duy mạch lạc và sự tiến bộ vượt thời đại trong bối cảnh xã hội Việt Nam vào thập niên 40 của thế kỷ XX. Không dừng lại ở đó, trên cơ sở vận dụng phương pháp luận mácxít, Đề cương còn
khẳng định tính tất yếu của mối quan hệ biện chứng giữa các thành tố cơ bản của văn hóa cũng như giữa văn hóa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Trong khi các hoạt động về tư tưởng, học thuật và nghệ thuật thẩm thấu, bổ sung, chi phối lẫn nhau để tạo nên tổng thể nền văn hóa dân tộc thì toàn bộ nền văn hóa đó cũng chính là một “mặt trận”, có mối quan hệ ngang hàng, hữu cơ, mật thiết với mặt trận kinh tế và chính trị. Luận điểm “văn hóa là một mặt trận” được coi là tuyên ngôn của Đảng về sứ mệnh và vị thế của văn hóa, đồng thời cũng thể hiện tầm nhìn và cách tiếp cận tổng thể của Đảng ta đối với việc giải quyết các yêu cầu và mục tiêu lớn của đất nước. Trong bối cảnh lịch sử đương thời, luận điểm
này là cơ sở quan trọng để tập hợp, phát huy sức mạnh quần chúng và giới trí thức, kiến tạo nền tảng và nguồn sức mạnh tinh thần cùng với các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, góp phần phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Từ nhận thức căn bản này, đối với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa, Đề cương khẳng định mặt trận văn hóa sẽ tiếp tục phát huy vai trò then chốt của mình thông qua cuộc cách mạng văn hóa với ba nguyên tắc vận động căn bản, gồm: dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Ngoài mối quan hệ khăng khít, hữu cơ với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, nền văn hóa mới mà Đề cương xác lập còn thể hiện giá trị lý luận cấp tiến khi đặt con người ở vị trí trung tâm. Vị thế của con người trước hết nằm ở vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác văn hóa, văn nghệ. Quan trọng hơn nữa, con người, hay nói chính xác hơn là quần chúng nhân dân, chính là chủ thể của văn hóa, là lực lượng sáng tạo, trao truyền, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa. Nền văn hóa mới mà Đảng ta hướng tới chính là nền văn hóa thuộc về nhân dân và do nhân dân xây dựng, phát triển vì cuộc sống lành mạnh, phong phú của nhân dân.
Tiếp đó, từ góc nhìn của chủ nghĩa Mác, Đề cương về văn hóa Việt Nam coi văn hóa như một lĩnh vực không ngừng biến đổi, với sự nối tiếp liên tục từ quá khứ, đến hiện tại và tương lai. Văn hóa hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của con người. Văn hóa bám rễ vào cội nguồn lịch sử và không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để bồi đắp và làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Các giá trị văn hóa, ngay cả giá trị truyền thống cũng không tồn tại một cách bất biến mà không ngừng được bổ sung và tái định hình để phù hợp với cuộc sống đang diễn ra. Việc lựa chọn các giá trị phù hợp để kế thừa dựa trên tinh thần khách quan và tư duy phê phán là một yêu cầu quan trọng đối với phát triển văn hóa. Thái độ khoa học, tiến bộ này của Đề cương cung cấp cho chúng ta một nền tảng lý luận quan trọng về động năng và tính kế thừa của văn hóa.
Với những tư tưởng, quan điểm ngắn gọn, súc tích trên đây, Đề cương về văn hóa Việt Nam “xứng đáng là một văn kiện đặt nền móng, mở đường cho việc xây dựng lý luận văn hóa cách mạng Việt Nam”1. Ba năm sau ngày Đề cương ra đời, từ điểm tựa lý luận của văn kiện này, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất khai mạc vào ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh hơn nữa vai trò định hướng, dẫn dắt của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước, dân tộc thông qua lời khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Kể từ thời điểm này cho đến năm 1975, đường lối văn hóa kháng chiến - kiến quốc dần hình thành và hoàn thiện dựa trên nền tảng căn bản mà Đề cương về văn hóa Việt Nam đã đề ra.
Trong công cuộc xây dựng đất nước sau ngày giải phóng, đặc biệt kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, nhận thức của Đảng về vai trò, vị thế của văn hóa cũng như các mục tiêu phát triển văn hóa cụ thể đã có những chuyển biến rõ rệt trước yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới. Tuy vậy, các nguyên lý và định hướng căn bản trong chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa vẫn thể hiện sự kiên định với nền tảng lý luận và tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã xác định, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tiếp đó, quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” được nhấn mạnh trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về các văn kiện trình Đại
hội VIII của Đảng (năm 1996).
Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được thông qua như một bản chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với việc đề ra 5 quan điểm chỉ đạo và 10 nhiệm vụ cụ thể, Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII là sự kế thừa sâu sắc những quan điểm của Đảng trong Đề cương về văn hóa Việt Nam và phát triển những giá trị lý luận này lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Cụ thể, so với Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã có quan niệm rộng hơn, toàn diện hơn, bao quát hơn về văn hóa, về văn hóa và
phát triển, về di sản văn hóa, về bản sắc, đặc trưng văn hóa Việt Nam, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...
Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh: “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Quan điểm này được làm sâu sắc hơn trong Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Nghị quyết khẳng định mục tiêu “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Năm 2020, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 76-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, trong đó nhấn mạnh: “xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh xây dựng văn hóa trongchính trị và kinh tế, đây vẫn là một trong những vấn đề cơ bản của đất nước giai đoạn mới. Muốn phát triển bền vững đất nước, không chỉ văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội, mà phải xây dựng và phát triển văn hóa, con người - tạo sức mạnh nội sinh cho sự phát triển bền vững. Như vậy, trải qua 80 năm, các luận điểm của Đề cương xác định về vai trò, sứ mệnh của văn hóa như nguồn lực nội sinh cho phát triển; sự gắn kết của văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội; ý nghĩa trung tâm của con người trong phát triển văn hóa; và các nguyên tắc vận động của văn hóa đã được chứng minh là những giá trị nền tảng cốt lõi, định hình đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trước những biến động không ngừng của bối cảnh lịch sử và các yêu cầu phát triển mới liên tục xuất hiện, các luận điểm của Đề cương vẫn còn nguyên giá trị, sức ảnh hưởng của mình và tiếp tục được vận dụng, kế thừa, bổ sung và hoàn thiện trong hệ
thống các văn kiện của Đảng về văn hóa. Quá trình chuyển dịch từ ba nguyên tắc dân tộc, đại chúng, khoa học của nền văn hóa cách mạng cho đến các giá trị tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn phát triển đất nước và hội nhập quốc tế cho thấy vị thế và tầm ảnh hưởng của Đề cương về văn hóa Việt Nam như một cương lĩnh khởi nguồn cho việc xác lập và hoàn thiện tư duy lý luận về phát triển văn hóa, phát triển con người
ở Việt Nam.


2. Giá trị thực tiễn của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” trong phát triển văn hóa, xây dựng con người
Đề cương về văn hóa Việt Nam không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa lớn lao trong việc chỉ đạo hoạt động văn hóa - xã hội ở nước ta. Việc vận dụng và phát huy tinh thần, luận điểm, nguyên tắc về phát triển văn hóa được đặt ra trong Đề cương với ý nghĩa như một cương lĩnh về văn hóa của Đảng đã thực sự mang lại nhiều chuyển dịch và kết quả quan trọng
trong sự nghiệp phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong suốt tám thập niên qua.
Mối quan hệ giữa các chủ thể văn hóa từng bước được điều chỉnh theo hướng hài hòa, lành mạnh giúp phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và chủ thể sáng tạo của nhân dân. Ngay từ khi ra đời, với việc đặt con người ở vị trí trung tâm của phát triển
văn hóa, Đề cương về văn hóa Việt Nam là cơ sở quan trọng để tập hợp, phát huy sức mạnh quần chúng và giới trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng để cống hiến sức mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Qua tổng kết lý luận và tình hình thực tiễn, mối quan hệ giữa các chủ thể văn hóa ở nước ta từng bước được điều chỉnh theo hướng hài hòa và lành mạnh hơn thông qua việc sử dụng hợp lý các công cụ quản lý hiện đại và đổi mới cơ chế, phương
thức quản lý.
Với vai trò là người lãnh đạo sự nghiệp văn hóa, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận nhằm thể chế hóa các quan điểm, tạo lập nền tảng và định hướng cho việc xây dựng khuôn khổ chính sách văn hóa ở Việt Nam. Trong khi đó, Nhà nước từ vị trí là người chỉ huy đã chuyển sang vai trò của nhà quản lý và bảo trợ. Các cơ quan quản lý
nhà nước về văn hóa cũng thực hiện việc phân cấp, phân quyền trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc thống nhất về hành chính quốc gia và đề cao tính tự chủ của địa phương trên nền tảng lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó, các cơ chế và phương tiện để thúc đẩy và hỗ trợ sự tham gia của nghệ sĩ, các nhà quản lý văn hóa và người dân nói chung vào các đối thoại chính sách đã được xây dựng và phát triển. Từ sự chuyển dịch mang tính cấu trúc này, vai trò của hệ thống chính sách, pháp luật được đề cao ở nước ta. Các văn bản pháp luật với vai trò là công cụ điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể trong từng lĩnh vực cụ thể của khu vực văn hóa được chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Trong lĩnh vực văn hóa, hiện Việt Nam đã có 5 luật (Luật điện ảnh, Luật di sản văn hóa, Luật quảng cáo, Luật sở hữu trí tuệ, Luật thư viện), 50 nghị định, 14 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và trên 100 thông tư, thông tư liên tịch được điều chỉnh trực tiếp. Các đạo luật này đã từng bước tạo ra một khuôn khổ pháp lý tương đối nhất quán và hợp lý, tạo lập môi trường vận hành thuận lợi cho các hoạt động văn hóa. Đặc biệt, các văn bản hiện hành đã góp phần thể chế hóa và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng, tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa của người dân.
- Phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam được phát huy, hướng tới phát triển con người toàn diện mỗi cá nhân công dân Việt Nam, dù ở vị trí lãnh đạo, quản lý, thực hành sáng tạo hay công chúng, đều là nhân tố có sức ảnh hưởng đến quá trình phát triển văn hóa. Phát triển con người và phát triển văn hóa là hai mục tiêu gắn kết, không tách rời nhau. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Nền tảng tinh thần của Đề cương trong nhiều thập kỷ đã được bổ sung và phát triển qua các văn kiện sau này của Đảng, một số chuẩn mực tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người Việt Nam, bao gồm cả các giá trị truyền thống (yêu nước, nhân ái, đoàn kết...) và các giá trị hiện đại (năng lực sáng tạo, tôn trọng pháp luật...), đã từng bước được thể chế hóa, đưa vào các văn bản pháp luật, quy ước, hương ước làng, xã, quy chế, quy tắc, nội quy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Các hoạt động văn hóa - nghệ thuật, các chương trình nghiên cứu, v.v. được mở rộng nhằm nhận diện, tuyên truyền và nâng cao nhận thức của xã hội về hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực của con người Việt Nam.
Công tác nghiên cứu, giáo dục, đào tạo được chú trọng, trong đó kết hợp giữa dạy chữ, dạy kỹ năng, giáo dục nghệ thuật, năng lực cảm thụ thẩm mỹ với rèn luyện thể chất, góp phần nâng cao trí tuệ, cải thiện tầm vóc con người Việt Nam. Ngoài hệ thống giáo dục chính quy, hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở cũng được đầu tư như một phương thức để nâng cao trình
độ thẩm mỹ, phát triển kỹ năng và tri thức cho người dân ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Đặc biệt, hệ thống thiết chế văn hóa được Nhà nước chú trọng đầu tư ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã góp phần không nhỏ vào việc thu hẹp khoảng cách trong hưởng thụ văn hóa giữa các bộ phận cư dân, giúp bảo đảm nguyên tắc công bằng, dân chủ hóa trong phát triển văn hóa.
Môi trường văn hóa được cải thiện, đặc biệt là tại các thiết chế văn hóa, các đơn vị, tổ chức văn hóa. Kết quả này đóng góp không nhỏ vào việc phát huy năng lực của chủ thể văn hóa và nâng cao chất lượng của sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Hơn thế nữa, việc xây dựng môi trường văn hóa được quan tâm một cách thực chất và có chiều sâu đã và đang tạo ra diện mạo mới cho đời
sống văn hóa cơ sở, kiến tạo các quan hệ hợp tác lành mạnh, phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân.
- Văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy hiệu quả, đi cùng với việc đẩy mạnh giao lưu, hội nhập văn hóa quốc tế. Việt Nam lưu giữ hệ thống di sản văn hóa và tài nguyên thiên nhiên
phong phú, đa dạng. Vận dụng các nguyên tắc của Đề cương về văn hóa Việt Nam trong suốt những thập niên qua, việc kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Cơ chế xử lý hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế đã từng bước được xác lập và vận hành trên thực tế. Nhiều di sản văn hóa của Việt Nam được ghi danh vào danh mục quốc gia, quốc tế như một cách ghi nhận và bảo tồn các giá trị lịch sử, giáo dục và sự đặc sắc về nghệ thuật. Bên cạnh đó, di sản văn hóa đã và đang trở thành một yếu tố cốt lõi của quá trình chuyển hóa nguồn lực mềm văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa thông qua xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch và là mấu chốt quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của điểm đến du lịch.
Trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, vai trò của cộng đồng chủ thể được phát huy. Nhà nước tham gia vào quá trình này với tư cách là người bảo trợ và tạo điều kiện thông qua việc ban hành các cơ chế ưu đãi, khuyến khích và đãi ngộ đối với các cá nhân và cộng đồng liên quan.
Đi cùng với việc bảo tồn văn hóa truyền thống, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại là một xu thế tất yếu, đặc biệt được đẩy mạnh trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong thời gian qua, từ việc đóng cửa với thế giới, Việt Nam đã có sự chuyển dịch tích cực sau khi ban hành chủ trương đổi mới. Chúng ta đã chủ động mở cửa hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, mở cửa thị trường văn hóa cho các doanh nghiệp nước ngoài.... Trong suốt quá trình này, nhiều giá trị văn hóa của các nước trong khu vực và trên thế giới đã từng bước du nhập vào Việt Nam, được người dân đón nhận và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, thông qua vai trò của các tổ chức quốc tế, đội ngũ cán bộ văn hóa, giới thực hành và các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam đã có cơ hội tham gia các hoạt động trao đổi văn hóa, nâng cao năng lực và hiểu biết về văn hóa các nước, từ đó rút ra các bài học để áp dụng trong nước.
Ở chiều hướng ngược lại, nhiều hoạt động nhằm giới thiệu và quảng bá văn hóa Việt Nam, nâng cao thương hiệu và vị thế của quốc gia trên trường quốc tế cũng được thực hiện (Tuần lễ văn hóa Việt Nam, Ngày văn hóa Việt Nam và các sự kiện khác). Việc khai thác các giá trị văn hóa truyền thống để phát triển các sản phẩm văn hóa phục vụ xuất khẩu cũng được đẩy mạnh như một cách thức để gia tăng giá trị kinh tế của văn hóa và quảng bá hình ảnh của đất nước.
- Việc gắn kết văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội có chuyển dịch tích cực về nhận thức và hành động Việc hiện thực hóa quan điểm của Đề cương về văn hóa Việt Nam về mặt trận văn hóa tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với mặt trận chính trị và kinh tế luôn được Đảng ta chú trọng. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã khẳng định: “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế”. Xây dựng văn hóa trong kinh tế là một bước tiến cả trong tư duy lý luận của Đảng cũng như trong triển khai tổ chức thực hiện ở nước ta, nhằm tạo sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa văn hóa và kinh tế; có giá trị thiết thực và ý nghĩa lâu dài thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển bền vững trong những năm tới.
Từ nhận thức này, các hành động cụ thể đã được thực hiện nhằm khai thác tiềm năng kinh tế của văn hóa, phát huy tối đa vai trò và đóng góp của lĩnh vực này. Minh chứng điển hình cho nỗ lực này chính là việc ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 vào năm 2016. Chiến lược đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc kiến tạo môi trường thể chế thuận lợi cho các ngành công nghiệp văn hóa khai thác và chuyển hóa các nguồn tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm và dịch vụ có sức hấp dẫn. Các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đã tích cực triển khai công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Những thay đổi tích cực về thể chế chính sách, đặc biệt là các chính sách kinh tế trong văn hóa và khuyến khích sự tham gia của các thành phần sở hữu, sự đầu tư nguồn vốn trong và ngoài nước vào các ngành công nghiệp văn hóa đã thúc đẩy thị trường công nghiệp văn hóa Việt Nam có những bước tiến mới, mang lại những đóng góp nhất định vào tăng trưởng GDP của cả nước. Theo thống kê, so với mức GDP chiếm 2,68% năm 2015, các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam ước đạt 3,61% GDP cả nước năm 2018. Sự thay đổi này cho thấy, các ngành công nghiệp văn hóa bước đầu phát huy hiệu quả tài nguyên văn hóa và chuyển hóa thành sức mạnh
mềm văn hóa, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Nhìn chung, trong suốt tám thập niên qua, dưới ánh sáng của Đề cương về văn hóa Việt Nam, quá trình phát triển văn hóa và con người Việt Nam đã có những bước tiến tích cực và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Vai trò của văn hóa như một nguồn sức mạnh nội sinh cho sự phát triển toàn diện của kinh tế - xã hội đất nước từng bước được hiện thực hóa. Văn hóa có đóng góp như một lĩnh vực độc lập và như một thành tố nằm xuyên suốt trong các lĩnh vực khác. Các nỗ lực của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc đổi mới thể chế, chính sách, phương thức quản lý đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong mối quan hệ giữa các chủ thể, từ đó giúp phát huy năng lực và phẩm chất của con người Việt Nam, nâng cao hiệu quả các hoạt động văn hóa và phát huy được các giá trị văn hóa. Đây là phương hướng phát triển tương ứng với khuôn khổ và mô hình phổ biến trên phạm vi quốc tế hiện nay, cũng phù hợp với bối cảnh cụ thể của Việt Nam.
Tuy nhiên, xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam, một số hạn chế trong vận dụng giá trị và nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa vẫn đang tồn tại khiến cho các quan điểm xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được triển khai mạnh mẽ, chưa thực sự thấm sâu trong các tầng lớp nhân dân. Việc quán triệt và thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa và con người có lúc, có nơi chưa đạt yêu cầu đề ra và còn thiếu khoa học, đồng bộ. Cơ chế phối hợp giữa các ban, ngành, cơ quan các cấp, giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân chưa chặt chẽ. Sự tham gia của các chủ thể cấp cơ sở, đặc biệt là những người chịu tác động trực tiếp của hệ thống thể chế, chính sách, còn mang tính hình thức.
Môi trường văn hóa có lúc, có nơi chưa lành mạnh, có mặt xuống cấp. Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế còn chưa được quan tâm đúng mức. Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa cải thiện hiệu quả tình trạng bất bình đẳng giữa khu vực công lập và tư nhân trong việc tiếp cận nguồn hỗ trợ từ Nhà nước.


3. “Đề cương về văn hóa Việt Nam” - động lực phát triển văn hóa, xây dựng con người theo hướng bền vững
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không chỉ khẳng định cần phải “đúc kết, xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam” mà còn nhấn mạnh khẩn trương “nghiên cứu xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam thời kỳ mới”. Trước những thời cơ, thách thức và yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (2021) nhấn mạnh: “Phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”.
Trước những vấn đề đặt ra từ thực tế, nhằm hiện thực hóa đường lối của Đảng, Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, và tiếp tục đi sâu tạo đột phá về thể chế, chính sách trong quá trình triển khai Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, việc kế thừa, phát huy các giá trị, nguyên tắc của Đề cương về văn hóa trong phát triển văn hóa, con người
Việt Nam theo hướng bền vững là vô cùng quan trọng và thiết thực. Để vận dụng khách quan, phát huy hiệu quả giá trị và nguyên tắc Đề cương trong bối cảnh mới, chúng ta cần phải xác định xây dựng môi trường văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi nhằm từng bước hình thành nên hệ sinh thái có khả năng nuôi dưỡng, thúc đẩy sự sáng tạo, đồng thời tăng cường năng lực kết nối, lan tỏa, định hình những giá trị tốt đẹp của văn hóa, con người Việt Nam. Việc mở cửa hoàn toàn du lịch vào tháng 3/2022, gắn du lịch với văn hóa, với tiến bộ khoa học công nghệ và phát triển vùng, địa phương cũng cho thấy sự bứt phá của Việt Nam với vai trò là một trong những quốc gia tiên phong triển khai các chương trình phục hồi sau đại dịch Covid-19 vì mục tiêu phát triển bền vững. Những kết quả đạt được trong thời gian qua đã trở thành minh chứng sống động cho việc khẳng định phát triển văn hóa khi có sự phối hợp, liên kết đồng bộ và được triển khai một cách khoa học sẽ phát huy tối đa vai trò của nhân dân với tư cách là chủ thể của sáng tạo và phát triển văn hóa. Tiếp đó, hàng loạt sự kiện văn hóa, thể thao quy mô lớn cũng được tổ chức, thu hút đông đảo sự tham gia của người dân trong nước và du khách quốc tế, cũng đã góp phần tạo ra giá trị về kinh tế và nâng cao vị thế thương hiệu quốc gia. Điểm lại một số ví dụ trên đây trong Hội thảo kỷ niệm 80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam như là điểm khởi đầu và động lực
mới cho sự phát triển khiến cho mỗi chúng ta càng thêm trân trọng vai trò của Đề cương và những nỗ lực của những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa trong việc vận dụng linh hoạt các giá trị, nguyên tắc của Đề cương trong việc khơi dậy khát vọng cống hiến của toàn thể nhân dân cho phát triển văn hóa trong sự phát triển chung của toàn dân tộc, nhất là trong các giai đoạn khó
khăn với những diễn biến khó lường vừa qua.
Vượt lên trên tất cả những khó khăn, thách thức, tư tưởng xây dựng nền văn hóa mới vì dân tộc, đại chúng với một thái độ khách quan, đúng đắn, khoa học của Đề cương đã luôn tạo sức hút, sức thuyết phục và khả năng quy tụ mạnh mẽ tri thức, tâm huyết khát vọng cống hiến của toàn thể nhân dân Việt Nam trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử dân tộc. Vì bản chất cốt lõi của văn hóa chính là “một mặt trận”, là “ngọn đuốc soi đường cho quốc dân đi”, là “sức mạnh nội sinh”, là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và cũng là động lực để thúc đẩy sự phát triển của đất nước” như Đề cương về văn hóa Việt Nam, cùng các văn kiện của Đảng đã khẳng định.
Trong giai đoạn hiện nay, vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng này của văn hóa chỉ có thể phát huy hiệu quả khi đầu tư cho văn hóa phải thực sự được chú trọng thông qua việc triển khai các chiến lược, chương trình với lộ trình phù hợp. Đây chính là kết quả nhận thức có được từ việc kế thừa, phát huy một cách khoa học nền tảng, giá trị mang ý nghĩa khởi nguồn của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Từ khởi nguồn này, trong các năm tiếp theo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tiếp tục các nỗ lực nhằm khẳng định vị thế của cơ quan chuyên trách về văn hóa và tạo ra những chuyển biến tích cực trong toàn ngành. Đặc biệt, toàn ngành sẽ tập trung vào việc “biến tư duy thành hành động” trong tiến trình hiện thực hóa các giá trị, nguyên tắc của Đề cương trong xây dựng môi trường văn hóa nhằm đẩy mạnh và lan tỏa rộng rãi ở khắp các cấp, các vùng, miền trên cả nước. Việc xây dựng môi trường văn hóa được quan tâm một cách thực chất, khoa học và có chiều sâu hơn sẽ tạo ra diện mạo mới cho đời sống văn hóa của toàn dân, kiến tạo các quan hệ hợp tác lành mạnh, phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao mức hưởng thụ văn
hóa của đông đảo quần chúng nhân dân.
Gắn bó chặt chẽ với mục tiêu xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh chính là việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể có liên quan trong các môi trường này. Phát triển văn hóa ở Việt Nam vẫn luôn được khẳng định là sự nghiệp của toàn dân. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân có thể hiện thực hóa vai trò của mình trong sự nghiệp này là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành văn hóa. Từ việc tham gia vào quá trình sáng tạo cho tới việc tiếp cận và hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, mỗi người dân đều có thể đóng góp vào sự phát triển chung của lĩnh vực văn hóa, giúp nâng cao giá trị và phát huy hiệu quả các nguồn lực hiện có.
Những đóng góp và vai trò của người dân đối với việc phát triển văn hóa được thể chế hóa như một nội dung của quyền văn hóa đã được khẳng định trong Hiến pháp. Việc phát huy quyền văn hóa và thúc đẩy phát triển văn hóa như một sự nghiệp của toàn dân sẽ giúp tăng cường quá trình đa dạng hóa các giá trị và biểu đạt văn hóa, từ đó phát huy tốt hơn khả năng đóng góp về kinh tế và xã hội của văn hóa. Đây là xu hướng chung trên thế giới và được thể chế hóa thông qua các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia phê chuẩn.
Cuối cùng, một lần nữa khẳng định lại rằng, phát triển văn hóa theo quan điểm mà Đảng ta đã đề ra luôn hướng tới sự toàn diện và hài hòa, trong đó nhân tố con người nắm giữ vị trí then chốt. Văn hóa giữ vai trò điều tiết xã hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa của cộng đồng, văn hóa giữ vai trò định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục đích nhân văn của mình và cột mốc văn hóa trong tâm trí con người luôn là cột mốc vững chắc nhất. Với hàm nghĩa này, phát triển văn hóa chính là phát triển con người, một quá trình phát triển lâu dài và hướng tới tương lai. Tuy nhiên, tầm quan trọng của phát triển văn hóa lại đòi hỏi sự đầu tư tương xứng của Nhà nước và sự đóng góp tích cực của các thành phần xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, đây là
một trong những nhiệm vụ quan trọng và đầy thách thức của Việt Nam.
Chính vì vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần phải nỗ lực vận dụng các nguyên tắc của Đề cương nhằm khơi thông, tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển văn hóa, xây dựng toàn diện con người Việt Nam thông qua hệ thống các giải pháp cải thiện khung khổ thể chế, hoàn thiện chính sách hiện hành, bao gồm:
- Hoàn thiện Luật đầu tư, Luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), bổ sung lĩnh vực văn hóa vào nhóm ngành nghề ưu đãi đầu tư, vào nhóm lĩnh vực được áp dụng đầu tư theo phương thức đối tác công tư;
- Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng bổ sung các khoản chi tài trợ cho văn hóa, thể thao được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế;
- Có chính sách phù hợp tại Luật quản lý, sử dụng tài sản công, nhằm phát huy, sử dụng có hiệu quả tài sản kết cấu hạ tầng, thiết chế văn hóa, tài sản đặc thù của văn hóa.
- Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa nhằm chấn hưng văn hóa.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách, điều chỉnh xây dựng Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trong đó đặt trọng tâm nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập của thị trường văn hóa.
- Xây dựng Bộ chỉ số quốc gia về phát triển văn hóa.
- Hoàn thiện các chính sách văn hóa đối ngoại có khả năng phát huy tính chủ động hội nhập, tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa nhằm tạo sự lan tỏa mạnh mẽ của giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới.
- Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ, chú trọng phát triển công cụ đo lường, giám sát việc hoạch định, triển khai chính sách và hiệu quả đầu tư. Đồng thời, tiếp tục phát triển hệ thống thông tin, dữ liệu văn hóa và tăng cường chia sẻ thông tin phối hợp liên ngành, liên khu vực, liên
chủ thể.
Bước sang năm 2023, tròn 80 năm ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam, với niềm tin vững chắc từ những thành quả đã đạt được trong quá trình kế thừa, vận dụng các giá trị, nguyên tắc cốt lõi của Đề cương, cùng những hy vọng mới, tôi tin rằng, chúng ta sẽ tiếp tục kiên định trên con
đường tháo gỡ khó khăn, khắc phục tồn tại, tận dụng cơ hội, tìm kiếm giải pháp tập trung nguồn lực đầu tư chuyên sâu và có trọng điểm cho văn hóa. Vì trên hết, đầu tư cho văn hóa một cách khoa học, hợp lý, chính là đầu tư cho sự phát triển, đầu tư cho tương lai hội nhập mang tính bền vững hơn của đất nước. Đó cũng chính là nền tảng tiên quyết góp phần hình thành một nền văn hóa mới có khả năng tạo động lực khơi dậy khát vọng cống hiến của toàn dân cho sự nghiệp chấn hưng văn hóa và chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trên bản đồ sức mạnh mềm thế giới.

Chú thích:

1. Phạm Quang Nghị: “Đề cương văn hóa Việt Nam và công cuộc xây dựng, phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, in trong kỷ yếu Hội thảo 60 năm
Đề cương văn hóa Việt Nam (1943-2003), Viện Văn hóa - Thông tin, 2004, tr.43.

2. Xem Lê Thanh Liêm: Đánh giá về pháp luật cho phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Hà Nội, 2022.

3. Tham khảo Nguyễn Thị Thu Phương (Chủ biên): Định vị các ngành công nghiệp văn
hóa trong phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.143.

5. Tham khảo đề xuất của Vụ Kế hoạch, Tài chính - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

(Trích Tài liệu Hội thảo cấp quốc gia 80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943-2023) Khởi nguồn và động lực phát triển)