Văn học Việt Nam từ ngày thống nhất - Một số vấn đề tồn đọng

13.10.2025
Nguyễn Văn Dân
Trong lĩnh vực lý luận - phê bình, các thành tựu đã nhắc đến ở trên không che giấu được một hiện tượng lý luận - phê bình vẫn còn tồn tại dai dẳng đến ngày hôm nay: đó là kiểu lý luận - phê bình theo truyền thống tuyên giáo, là kiểu chỉ làm nhiệm vụ diễn giải cho đường lối chứ không hoặc ít có lý luận học thuật chuyên môn.

Văn học Việt Nam từ ngày thống nhất - Một số vấn đề tồn đọng

Nghiên cứu văn học không còn chỉ là công việc khen chê, bình phẩm theo cảm hứng, mà hầu hết đều muốn dựa trên các lý thuyết khoa học. Hình ảnh minh họa. Nguồn Internet.

1. Thành tựu sáng tác
Trong giai đoạn trước 1975, các nhà văn Việt Nam hiện đại phải dấn thân vào sự nghiệp chung của cả nước để thực hiện nhiệm vụ hàng đầu của đất nước là đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất cho toàn lãnh thổ đất nước từ Bắc đến Nam. Trong tinh thần đó, văn học Việt Nam, với mục tiêu “vì Tổ quốc”, đã huy động toàn lực để tham gia thực hiện nhiệm vụ chiến lược của cả nước là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Chủ thể và đối tượng của văn học lúc đó chỉ là “cái chung”, “cái ta”. Mọi “cái tôi” xuất hiện trong văn học cũng chỉ là đại diện cho cái ta theo một khung mẫu thẩm mỹ thống nhất. “Cái hùng” được đề cao thành phạm trù trung tâm. “Cái bi” luôn mang màu sắc hùng tráng lạc quan. “Cái ác” được đưa ra trong diện mạo thấp hèn để làm tôn cao cái hùng.

Với một khung mẫu thẩm mỹ thống nhất như thế, văn học Việt Nam hiện đại trước ’75 chỉ được phép diễn đạt một sự thật: Đó là cuộc đấu tranh để giành nền hoà bình thống nhất cho toàn đất nước. Điều này là phù hợp với quy luật lịch sử thế giới. Đó là quy luật “Si vis pacem, para bellum” (tiếng Latin: “Muốn có hoà bình, hãy chuẩn bị chiến tranh”). Vì thế, giống với các nền văn học khác trên thế giới, văn học Việt Nam trong giai đoạn này cũng đạt được những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao và gây được những tác động xã hội to lớn. Đó là những trường ca, những tiểu thuyết sử thi mang âm hưởng cái hùng và khát vọng hoà bình nhân văn. Văn học Việt Nam đã đi theo đúng quy luật lịch sử thế giới: chúng ta viết về “bellum” là nhằm mục đích “pax/pacem”.

Từ năm 1975, khi cả nước đã có một nền độc lập thống nhất, toàn quốc chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn xây dựng và hội nhập với thế giới để phát triển đất nước thành một quốc gia hoà bình, dân chủ, văn minh, thì văn học đương đại của chúng ta đã nhanh chóng thay đổi để phù hợp với yêu cầu lịch sử. Từ nay, mặc dù vẫn còn những cuộc xung đột biên giới, nhưng về cơ bản chúng ta đã có được nền độc lập hoà bình thống nhất toàn quốc, cho nên cái sự thật “Si vis pacem, para bellum” tạm thời lùi về phía sau. Giờ đây, cuộc sống bề bộn với nhiều sự thật trở thành đối tượng nghệ thuật không hạn chế của các nhà văn. Cái tôi cá nhân chiếm vị trí trung tâm bên cạnh hoặc thay thế cho cái ta. Những vấn đề của thời đại cũng thúc đẩy các nhà văn đi tìm đối tượng sáng tác cả trong lịch sử của dân tộc. Bối cảnh đó đã tạo ra một nền văn học phong phú, đa dạng và mang cả tinh thần hội nhập thế giới.

Nhưng, để có được sự thay đổi đó, các nhà văn đã phải có ý thức thay đổi các nguyên tắc mỹ học cũ. Ngay sau năm 1975, trên đất nước Việt Nam thống nhất bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu của một nhu cầu bức xúc dành cho sự đổi mới văn nghệ. Một trong những dấu hiệu này là bài báo “Về một đặc điểm của văn học và nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua” (Văn nghệ, số 23/1979) của nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến. Ông đề xuất ý kiến phải chuyển từ phạm trù “cái cao cả” (tức “cái siêu phàm” - NVD), đặc trưng cho nền văn nghệ Việt Nam “vừa qua”, sang “cái đẹp như là lý tưởng” theo đúng quy luật phát triển thẩm mỹ của văn nghệ; và tương ứng với nó là phải chuyển từ “chủ nghĩa hiện thực phải đạo” sang “chủ nghĩa hiện thực chân chính”. Văn học hiện thực chân chính ở đây là văn học viết về những sự thật hiện thực “đang tồn tại” chứ không phải về “cái phải tồn tại” như trong “văn học phải đạo”. Đến nửa đầu thập kỷ ’80, nhu cầu đòi hỏi phải thay đổi những quan niệm mỹ học cũ càng trở nên bức thiết. Rồi ngay sau ngày Đổi Mới (1986), các nhà văn Việt Nam đã có ý thức tuyên bố công khai các nguyên tắc mĩ học mới trong sáng tạo nghệ thuật để phù hợp với chủ trương đổi mới tư duy trong phát triển văn hoá - văn nghệ, phục vụ cho đổi mới phát triển đất nước. Trong tinh thần đó, năm 1987 nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đăng bài báo: “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ” (Văn nghệ, số 49-50/1987). Có thể coi bài báo này của Nguyễn Minh Châu như là một bản “Tuyên ngôn mỹ học thời kỳ Đổi Mới”. Nó tuyên bố về ba vấn đề cơ bản của sáng tác: Sáng tác thế nào? Sáng tác cái gì? Và sáng tác cho ai? Cụ thể là: Văn nghệ phải có tự do sáng tác; văn nghệ phải phản ánh đúng bộ mặt thật của hiện thực chứ không minh hoạ cho đường lối; văn nghệ phải viết cho dân chúng chứ không viết cho người lãnh đạo. Có thể nói, từ thập niên 1980, tư tưởng mỹ học của Việt Nam đã có sự chuyển biến căn bản, trong đó căn bản nhất là quan niệm về quan hệ giữa văn nghệ với chính trị. Từ đó, văn nghệ Việt Nam bắt đầu tiếp thu rộng rãi các nguồn mạch nghệ thuật và thẩm mỹ của thế giới; sáng tác văn học nghệ thuật trở nên đa dạng; chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa không còn giữ địa vị độc tôn; các văn nghệ sĩ đã mở rộng phương pháp sáng tác ngoài phương pháp hiện thực XHCN; đề tài và nhân vật trung tâm trở nên đa dạng; “cái tôi cá nhân” xuất hiện với toàn bộ sự phong phú của nó; cái bi, cái xấu với tư cách là những phạm trù mỹ học đã được quan tâm và trở thành trong số những đối tượng thẩm mỹ chủ chốt của văn học đổi mới.

Trong tinh thần đó, văn học đương đại của chúng ta đã trở nên gần gũi hơn với con người Việt Nam và con người nhân loại. Ngoài một số tiểu thuyết và trường ca vẫn còn “viết cho lãnh đạo”, nhìn chung tiểu thuyết trong giai đoạn đương đại đã tập trung nhiều vào số phận con người cá nhân; trường ca sử thi nhường chỗ cho trường ca trữ tình, suy tư; tư duy triết lý - phản biện đã thể hiện nhiều trong tiểu thuyết và trường ca, thay chỗ cho tư duy xuôi chiều... Có thể nói, các nhà văn Việt Nam đương đại đã sáng tác với tâm thế hội nhập thế giới. Đây là thành tựu quan trọng của sáng tác văn học Việt Nam từ ngày thống nhất đất nước.

2. Thành tựu lý luận - phê bình
Tôi xin nhắc lại tóm tắt một số thành tựu cơ bản của lý luận - phê bình văn học Việt Nam từ ngày thống nhất đất nước đến nay.

Nhìn chung, từ ngày thống nhất đất nước, đặc biệt là từ sau ngày Đổi Mới, ngành lý luận - phê bình văn học của Việt Nam đã phát triển xứng đáng là một trong những ngành khoa học cơ bản. Nghiên cứu văn học không còn chỉ là công việc khen chê, bình phẩm theo cảm hứng, mà hầu hết đều muốn dựa trên các lý thuyết khoa học. Vì thế, các thành tựu lý luận của thế giới không còn xa lạ với các nhà nghiên cứu Việt Nam. Hầu như không có lý thuyết hay phương pháp nào của thế giới mà không có mặt tại Việt Nam. Từ những lý thuyết cổ điển nhất đến những lý thuyết hiện đại nhất, tất cả đều được các nhà nghiên cứu Việt Nam nhắc đến, có lý thuyết được nhắc đến kỹ càng, có lý thuyết được nhắc đến ở mức vừa phải. Có người quan tâm giới thiệu nhiều lý thuyết và phương pháp, nhưng cũng có người chuyên tâm khảo cứu một lý thuyết. Có thể nói, thành tựu lớn nhất trong lý luận - phê bình văn học của Việt Nam giai đoạn đương đại là tự do học thuật.

Thành tựu quan trọng thứ hai của việc tiếp thu lý thuyết văn học thế giới là nó góp phần thúc đẩy xu hướng chuyên nghiệp hoá hoạt động lý luận - phê bình. Trên thực tế, xu hướng chuyên nghiệp hoá đã được thể hiện trong nhiều lĩnh vực của văn hoá thời kỳ Đổi Mới. Trong nghiên cứu văn học, xu hướng chuyên nghiệp hoá được thể hiện thành việc tăng cường tính khoa học của hoạt động lý luận - phê bình. Và để tăng cường tính khoa học, việc tiếp thu lý thuyết văn học của thế giới chính là một trong những nguồn lực chủ chốt.

Một thành tựu nữa của việc tiếp thu lý thuyết văn học của thế giới là thúc đẩy tính dân chủ trong nghiên cứu khoa học. Theo tinh thần đó, dân chủ trong nghiên cứu đang được thúc đẩy ở nước ta, và đó là một trong những thành tựu về đường lối quan trọng nhất của phát triển khoa học nói chung và của nghiên cứu văn học nói riêng. Trong việc tiếp thu các lý thuyết văn học của thế giới, tinh thần dân chủ đã được phát huy. Các nhà khoa học cũng như những người có quan tâm đều có quyền tham gia bàn luận, phản biện về các vấn đề của lý thuyết văn học. Nhiều cuộc hội thảo đã được tổ chức để tranh luận về các lý thuyết mới, như các cuộc hội thảo về lý thuyết hậu hiện đại, về lý thuyết người đọc, về lý thuyết nữ quyền, lý thuyết hậu thực dân, lý thuyết trung tâm - ngoại vi... Trong các cuộc hội thảo này, nhiều ý kiến khác nhau đã được phát biểu, thảo luận trên tinh thần dân chủ. Đó là một nét rất mới trong đời sống khoa học ngày nay. So với trước Đổi Mới thì đây thực sự là một tiến bộ rất lớn.


Nghiên cứu văn học không còn chỉ là công việc khen chê, bình phẩm theo cảm hứng, mà hầu hết đều muốn dựa trên các lý thuyết khoa học. Hình ảnh minh họa. Nguồn Internet
3. Một số vấn đề cần lưu ý
Mặc dù lĩnh vực sáng tác của ta từ sau ngày thống nhất đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, nhưng mỗi lần hội nghị, chúng ta lại đánh giá rằng văn học nước nhà chưa có / hay ít có những tác phẩm đỉnh cao, và quy nguyên nhân của việc này cho năng lực sáng tác của các nhà văn. Tuy nhiên, nhìn lại kết quả sáng tác của các nhà văn, tôi cho rằng việc quy kết này là chưa thoả đáng. Trên thực tế, theo tôi chúng ta đã có một số tác phẩm lớn có thể được gọi là “đỉnh cao”, nhưng những tác phẩm đó lại không được lòng giới quản lý, dẫn đến sự nhụt chí của các nhà văn. Có lẽ chính vì vậy mà những tác phẩm như thế là rất hiếm. Có thể gọi đây là vấn đề thiếu tác phẩm đỉnh cao. Vậy bản chất của vấn đề thiếu tác phẩm đỉnh cao là gì?

Ta hãy nhìn rộng ra thế giới để tìm sự khác biệt giữa các kiệt tác với sáng tác văn học Việt Nam hiện đại. Chẳng hạn, ta hãy nhìn vào những tác phẩm đoạt giải Nobel và các giải thưởng quốc tế danh giá khác trên thế giới để xem các tác giả của chúng có điểm gì khác so với chúng ta. Theo tôi, cái khác biệt quan trọng nhất giữa họ với chúng ta là ở quan niệm nghệ thuật mà nổi bật là quan niệm về con người: đó là họ quan tâm đến “thân phận con người”. Chúng ta đã có sự thay đổi quan trọng theo tuyên bố của Nguyễn Minh Châu là chuyển từ “viết cho lãnh đạo” sang “viết cho dân chúng”, nhưng thực sự là khi viết cho dân chúng, nhà văn của chúng ta mới chỉ quan tâm đến “số phận cá nhân” mà ít quan tâm đến “thân phận” của con người, của dân tộc.

Năm 1933, nhà văn Pháp André Malraux xuất bản cuốn tiểu thuyết La Condition humaine, đoạt giải Goncourt danh giá và làm cho ông nổi tiếng. Cuốn tiểu thuyết này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và trở thành một nguồn cảm hứng chủ chốt cho chủ nghĩa hiện sinh trong văn học Pháp và châu Âu. Nhiều nước đã dịch đúng nghĩa tên cuốn sách. Việt Nam cũng dịch đúng là “Thân phận con người”. Riêng trong tiếng Anh có một cách dịch chưa sát là “Man’s Fate” (“Số phận con người”). Hiểu cho sâu sắc thì phải thấy rằng “số phận” chỉ là trường hợp cụ thể của “thân phận”. Thân phận liên quan đến điều kiện và hoàn cảnh xã hội của con người và nó mang tính đại diện có ý nghĩa lịch sử - xã hội hơn là số phận, đó là điều mà chủ nghĩa hiện sinh rất tâm đắc. Nhân vật Joseph K. của Kafka và Meursault của Camus chính là những “thân phận” của thời đại chứ không phải số phận riêng lẻ của một ai. Lukács, nhà mỹ học người Hungary, thì coi những “thân phận” này là một loại “nhân vật chính”, một đặc trưng hình thức của tiểu thuyết và nó được ông định nghĩa là “nhân vật có vấn đề” (Lý luận tiểu thuyết [1916]). Trong tinh thần đó, các nhà văn lớn trên thế giới thường trăn trở về thân phận con người để viết nên những tác phẩm lớn của nhân loại. Và chính những tác phẩm viết về thân phận con người, về loại “nhân vật có vấn đề”, là một loại tác phẩm làm cho nền văn học trở thành văn học lớn. Và như vậy, việc những nền văn học nào (như văn học Việt Nam ngày nay) chỉ có bóng dáng của số phận con người mà thiếu vắng những tác phẩm về thân phận con người cũng có thể được coi là một nguyên nhân làm cho văn học không lớn được. Nên biết rằng khi con người nhận ra rằng số phận thì ngắn mà thân phận thì dài thì bi kịch của nó sẽ xuất hiện. Bi kịch này trở thành phi lý khi một dân tộc không nhận thức được thân phận của mình là gì. Khi một dân tộc nhận thức được điều phi lý đó mà không biết làm thế nào để thoát ra thì điều phi lý đó lại biến thành bi kịch. Đó là cái vòng luẩn quẩn hiện sinh muôn thuở của con người và là một chủ đề lớn của văn học phi lý và cũng là một trong những nguyên cớ làm thành những tác phẩm đỉnh cao. Trong tinh thần đó, việc thiếu tác phẩm đỉnh cao và giấc mơ giải Nobel chính là vấn đề tồn đọng của sáng tác văn học Việt Nam hiện nay.

Trong lĩnh vực lý luận - phê bình, các thành tựu đã nhắc đến ở trên không che giấu được một hiện tượng lý luận - phê bình vẫn còn tồn tại dai dẳng đến ngày hôm nay: đó là kiểu lý luận - phê bình theo truyền thống tuyên giáo, là kiểu chỉ làm nhiệm vụ diễn giải cho đường lối chứ không hoặc ít có lý luận học thuật chuyên môn. Nó cũng chính là loại văn học “viết cho lãnh đạo” chứ không phải là “viết cho dân chúng”, và nó chính là một loại “văn nghệ minh hoạ” mà Nguyễn Minh Châu đã muốn viết “lời ai điếu”. Có thể gọi đây là vấn đề phê bình minh hoạ cần phải được khắc phục.

Có một vấn đề tồn đọng nữa của lý luận - phê bình liên quan đến vấn đề thiếu tác phẩm đỉnh cao đã nói ở trên trong sáng tác. Ở một dịp khác, tôi đã nói đến những hạn chế, nguyên nhân và yêu cầu khắc phục của công tác lý luận - phê bình khi áp dụng các lý thuyết nghiên cứu văn học của thế giới, ở đây tôi chỉ nhấn mạnh một vấn đề tồn đọng liên quan sát sườn đến sáng tác và phát triển văn học: đó là vấn đề nghiên cứu - phê bình theo quan điểm biệt lập. Cụ thể là mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong việc áp dụng các lý thuyết mới, nhưng ngành lý luận - phê bình của nước ta hiện nay nhiều khi chỉ mải mê với các thao tác nghiệp vụ chuyên môn của mình mà không có cái nhìn nghiên cứu so sánh về đối tượng phê bình trên bình diện thế giới. Thực tế, cái nhìn nghiên cứu so sánh sẽ giúp cho các nhà văn Việt Nam thấy nền văn học của chúng ta đang đứng ở chỗ nào trên trường văn học quốc tế, cho thấy văn học Việt Nam khác biệt ra sao về quan niệm nghệ thuật so với những tác phẩm đỉnh cao của thế giới; cái nhìn so sánh đó cũng sẽ cho thấy vai trò của quan niệm nghệ thuật quan trọng như thế nào trong sáng tác văn học và trong việc giải quyết vấn đề thiếu tác phẩm đỉnh cao để thoả mãn giấc mơ giải Nobel của các nhà văn.

Việc nghiên cứu dành cho một đối tượng khép kín (như phân tích tác giả, tác phẩm, hiện tượng văn học) là cần nhưng chưa đủ. Chúng ta đã có những công trình nghiên cứu lý luận chuyên sâu có giá trị học thuật về một lý thuyết nghiên cứu văn học nào đó, cũng như có những công trình áp dụng lý thuyết khá thành công vào việc nghiên cứu và phê bình đối với văn học Việt Nam. Nhưng nhiều khi việc nghiên cứu khép kín lại gây cho người đọc một ấn tượng cho thấy rằng các nhà lý luận nghiên cứu các hiện tượng văn học chỉ là để thoả mãn nhu cầu nghiên cứu của mình chứ ít quan tâm đến nhu cầu thúc đẩy văn học. Đó có thể được coi là việc nghiên cứu “vì chính nó” chứ không phải “vì văn học”. Thực ra cũng có những công trình nghiên cứu vì văn học, nhưng chúng chỉ giới hạn ở công việc “hiểu văn học” chứ chưa tác động đến văn học. Với tình trạng văn học “thiếu đỉnh cao” của chúng ta hiện nay, công việc sáng tác rất cần có sự tác động của lý luận - phê bình. Về phía lý luận - phê bình, muốn gây được tác động tích cực trở lại đối với sáng tác, thì nó cần phải có cái nhìn và thao tác so sánh mở rộng, có như thế nó mới cho thấy được sáng tác của ta còn cần cái gì để tạo ra được những tác phẩm đỉnh cao. Vì thế, để khắc phục tình trạng nghiên cứu theo quan điểm biệt lập, mệnh đề “phê bình để hiểu tác phẩm” cần phải được bổ sung thêm một mệnh đề quan trọng nữa: “phê bình để thúc đẩy sáng tác”.

-------------

Bài viết được khai thác từ tham luận tại Hội thảo tổng kết Văn học Việt Nam sau năm 1975 với chủ đề “Văn học Việt Nam sau năm 1975 thành tựu, vấn đề và triển vọng”.

(baovannghe.vn)