Từ hai hướng phát triển kiến trúc Bắc – Nam đến kiến trúc trong một đất nước Việt Nam thống nhất, vươn ra thế giới
Nhà hiệu bộ Đại học FPT - công trình thiết kế giành giải Nhất Kiến trúc xanh Việt Nam và được vinh danh tại Festival Kiến trúc thế giới. Ảnh: S.T
Họ là những KTS thế hệ đầu tiên của Hội KTS Việt Nam như Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp, Trần Hữu Tiềm, Nguyễn Văn Ninh, Đoàn Văn Minh, Nguyễn Ngọc Chân, Ngô Huy Quỳnh, Tạ Mỹ Duật… Đoàn KTS Việt Nam (nay là Hội KTS Việt Nam) được thành lập tại vùng Thản Sơn, dưới chân núi Tam Đảo (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) ngày 27/4/1948. Những công trình kiến trúc được xây dựng bằng gỗ, tre, nứa lá tại chiến khu Việt Bắc đã ghi dấu những thành tựu đầu tiên của ngành kiến trúc cách mạng non trẻ. Đó là các trụ sở ủy ban hành chính, nhà thông tin, nhà ở, hội trường, lán trại bộ đội...
Khi cuộc chiến chống thực dân Pháp kết thúc, đất nước bị chia cắt. Từ đó, ngành kiến trúc - xây dựng cùng đội ngũ KTS phía Nam cũng tách ra thành hướng phát triển riêng, cho mãi đến năm 1975.
1. Kiến trúc miền Bắc 1954 - 1975
Sau ngày giải phóng Thủ đô 1954, Hà Nội cùng cả nước bước vào giai đoạn mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, dồn sức hỗ trợ Mặt trận giải phóng miền Nam đấu tranh thống nhất đất nước. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm chính trị - văn hóa của cả nước, rất nhiều công trình công cộng đã được thiết kế và khởi công xây dựng. Đóng vai trò chủ công trong việc thiết kế kiến trúc giai đoạn này là một số KTS tốt nghiệp trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương từ trước năm 1945. Chỉ khoảng sau năm 1960 mới bắt đầu có sự tham gia của các KTS được đào tạo trong nước hoặc trở về từ các nước xã hội chủ nghĩa. Mặc dù hoàn cảnh kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, kiến trúc giai đoạn 1955 - 1965 cũng đã có những thành công nhất định trong việc tạo ra một bộ mặt đặc trưng, góp cho Hà Nội một số công trình đáng chú ý. Giai đoạn này hình thành phong cách kiến trúc tiền xã hội chủ nghĩa với phương châm sáng tác: “Thích dụng, bền vững, kinh tế và đẹp trong điều kiện có thể”.
Hội trường Ba Đình (do KTS Trần Hữu Tiềm thiết kế, giờ là nơi xây dựng tòa nhà Quốc hội mới) từng là một công trình có quy mô lớn vào những năm 1960, lại nằm ở vị trí trang trọng là quảng trường Ba Đình. Về công năng, hội trường bao gồm một phòng họp lớn 1000 chỗ cùng một số phòng họp nhỏ và các khu vực phụ trợ. Với một kinh phí hạn hẹp, hội trường đã đảm bảo các tiện nghi cần thiết cho những kì họp Quốc hội, đại hội Đảng, những cuộc họp lớn, những hội nghị quan trọng.
Công trình hành chính thành công nhất trong giai đoạn này là trụ sở Tổng cục Thống kê - Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (nay là trụ sở Bộ Kế hoạch và Đầu tư) do KTS Đoàn Văn Minh thiết kế. Nằm tại ngã ba đường Hoàng Diệu và đường Hoàng Văn Thụ, nơi dự kiến xây dựng một quảng trường giao thông hình tròn, nên hình khối công trình theo hình cong lõm ôm lấy quảng trường tương lai. Lần đầu tiên ở Hà Nội, nghệ thuật tổ hợp kiến trúc công trình cao 5 tầng rất thành công làm cho tòa nhà có phần nổi trội so với các trụ sở cơ quan xây dựng cùng thời.
Trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) do KTS Nguyễn Ngọc Chân thiết kế, được xây dựng theo một bố cục đăng đối, chính giữa là hội trường lớn phía trước tạo một quảng trường cây xanh nhỏ, hai phía là các khối nhà học 3 tầng. Một bố cục có dụng ý mang lại vẻ nghiêm trang cho một trường cán bộ chính trị, nhưng với một tỉ lệ cân xứng hợp lí giữa công trình và cây xanh nên vẫn cho ta một cảm giác chan hòa, gần gũi.
Đại học Bách khoa Hà Nội là trường học lớn nhất được xây dựng trong giai đoạn 1955 - 1964. Trường do các KTS Liên Xô thiết kế, được xây dựng bằng trang thiết bị và nhiều vật liệu ngoại với công nghệ hiện đại lúc bấy giờ. Bố cục phi đăng đối với các lớp nhà học cao 3 tầng xếp song song theo hướng Bắc - Nam, giữa các nhà được nối bằng hành lang cầu. Giảng đường lớn bố trí vuông góc với các dãy nhà học và xưởng thí nghiệm. Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại quốc tế với những băng kính lớn, mặc dù có đưa vào một số hình thức che nắng nhưng vẫn mang dáng dấp chung của một công trình xứ lạnh làm phong cách kiến trúc công trình phần nào đứng tách riêng khỏi ngôn ngữ kiến trúc chung của giai đoạn này.
Cuối năm 1964, Mĩ tiến hành leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, các kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản phải tạm dừng, chỉ còn một số công trình đã hoàn thành về cơ bản được tiếp tục hoàn thiện để đưa vào sử dụng.
20 năm không phải là thời gian đủ dài để tạo dựng một phong cách kiến trúc hoàn toàn mới. Đất nước vẫn còn chiến tranh, khả năng về tài chính còn rất hạn hẹp, do vậy mà khả năng tiếp cận với công nghệ xây dựng tiên tiến rất hạn chế. Như vậy thì những tìm tòi tạo ra được bản sắc riêng cho kiến trúc giai đoạn đặc biệt này là rất đáng trân trọng đối với các thế hệ KTS.
2. Kiến trúc miền Nam 1954 - 1975
Sau Hiệp định Genève 1954, Việt Nam bị chia cắt và nhiều người cho rằng kiến trúc - xây dựng thời đó ở miền Nam chủ yếu phục vụ chiến tranh, xã hội tiêu thụ.
Nhiều đánh giá vội vã và sai lầm cho rằng về mặt kiến trúc, Sài Gòn không có các công trình đóng góp vào hướng phát triển một nền kiến trúc hiện đại mang bản sắc dân tộc ở phía Nam. Tôi không cho rằng đó là cách đánh giá đúng đắn, vì các nhà thiết kế và công trình nêu ra sau đây minh chứng rằng KTS miền Nam cũng tranh thủ tìm hướng phát triển theo hướng hiện đại - nhiệt đới hóa.
Tên tuổi các KTS lớn như Ngô Viết Thụ, Nguyễn Hữu Thiện, Phạm Văn Thâng, Nguyễn Quang Nhạc, Trần Đình Quyền, Nguyễn Bá Lăng... với các công trình tiêu biểu như Khách sạn Caravelle, Dinh Độc Lập, thư viện Quốc gia, bệnh viện Vì Dân, Chùa Vĩnh Nghiêm... đã được giới kiến trúc cả nước sau này đánh giá là có thể tiêu biểu cho dòng kiến trúc hiện đại nhiệt đới hóa, mang bản sắc Việt.
Tòa nhà Dinh Độc Lập ra đời vào giữa những năm 1960 có quy mô lớn nhất miền Nam này kết hợp được nét hiện đại quốc tế lẫn phong cách dân tộc, giải quyết tài tình thông thoáng gió nhiệt đới (qua hành lang mặt tiền và bố cục không gian sảnh hành lang chung quanh, rất ít sử dụng điều hòa nhiệt độ thời thượng bấy giờ). Công trình cũng sử dụng chủ yếu vật liệu sản xuất trong nước.
Công trình Thư viện Quốc gia của Sài Gòn cũ (nay là Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh) do KTS Nguyễn Hữu Thiện thiết kế theo hướng tìm tòi, sáng tạo một phong cách kiến trúc mà trong giới kiến trúc gọi là “dân tộc - hiện đại”. Công trình có đường nét hiện đại nhưng khai thác được các motif trang trí dân tộc với tường hoa, mái nhô, hồ nước, cây xanh…
Vào cuối thập niên 1950 và các thập niên 1960 - 1970, nhóm KTS Nguyễn Văn Hoa - Phạm Văn Thắng - Nguyễn Quang Nhạc nổi tiếng với hàng loạt công trình mới xây dựng theo hướng hiện đại như Khách sạn Caravelle, Xưởng dệt Vinatexco, Nhà máy giấy Cogido ở Biên Hòa, Ngân hàng Việt Nam Thương tín, Trung tâm văn hóa Idecaf... Văn phòng kiến trúc uy tín bậc nhất Sài Gòn của nhóm này là một công ti thiết kế kiến trúc mẫu mực, có hệ thống tổ chức tốt, đảm nhận xây dựng nhiều công trình quy mô lớn ở Sài Gòn và khắp miền Nam trước năm 1975, đặc biệt là công trình nhà xưởng và văn phòng.
Các KTS trên cũng là các nhà giáo tài giỏi, có uy tín, chủ trương đào tạo một thế hệ KTS mới theo phong cách kiến trúc hiện đại phương Tây. Và trong thực tế, các ông đã góp phần đào tạo được một đội ngũ đông đảo KTS tài năng không thua kém các KTS phương Tây ở miền Nam trước năm 1975.
Lớp KTS nổi danh và trẻ hơn phải kể đến Trần Đình Quyền và Nguyễn Bá Lăng. KTS Trần Đình Quyền tốt nghiệp trường Kiến trúc Sài Gòn. Sau hai năm được tuyển chọn đi Mĩ tham quan ngành kiến trúc bệnh viện, được nhận học tại trường đại học danh tiếng Colombia ở New York, trở về nước, ông bắt tay vào lập các đồ án thiết kế mới và đồ án nâng cấp cải tạo, mở rộng nhiều công trình bệnh viện như Bệnh viện Vì Dân (nay là Bệnh viện Thống Nhất), Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, Trung tâm Chấn thương chỉnh hình, các bệnh viện: Long An, Nhà Bè, Hóc Môn, Nhi Đồng 1, Bình Dân... Ông chủ trương hạn chế sử dụng điều hòa nhiệt độ tốn kém, tạo thông thoáng tự nhiên vừa phù hợp khí hậu nhiệt đới, vừa tiết kiệm năng lượng.
KTS Nguyễn Bá Lăng thì lại đặc biệt nổi tiếng với kiến trúc chùa chiền. Các công trình của ông mang đậm nét dân tộc nhưng kết cấu và bố cục rất hiện đại, tập trung tiết kiệm với việc sử dụng vật liệu địa phương, nổi tiếng nhất là Chùa Vĩnh Nghiêm. Ở công trình này, ông đã thành công về mặt thiết kế kiến trúc, kết hợp kiến trúc hiện đại và dân tộc, dùng bê tông cốt thép thay kết cấu gỗ một cách hợp lí, nhất là bộ khung sườn, tạo nên những không gian kiến trúc cao rộng. Bộ mái chùa, từ diềm đến đỉnh mái, góc mái khai thác các motif trang trí trong kiến trúc truyền thống với độ tinh xảo, khéo léo và nhuần nhuyễn. Ngôi chùa ngoài là nơi thờ Phật với những lớp lang theo bố cục truyền thống còn kết hợp với chức năng khác của Phật giáo như: đào tạo, thư viện, phòng họp, nhà tăng...
Đánh giá so sánh hai nền kiến trúc Hà Nội và Sài Gòn trước 1975, KTS - nhà nghiên cứu người Pháp Francois Tainturier nhìn nhận: “Trong khi ở miền Bắc, Hà Nội tự chọn cho mình một nền kiến trúc chính thức thường đơn điệu, thì tại Sài Gòn tồn tại đồng thời nhiều trào lưu kiến trúc, do các kiến trúc sư được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, trong lẫn ngoài nước. Có một sự đoạn tuyệt rõ rệt với ngôn ngữ kiến trúc thuộc địa Pháp. Các công trình khá phong phú phản ánh trào lưu kiến trúc “hiện đại nhiệt đới hóa”. Đã có biết bao công trình chứng minh khả năng của kiến trúc giải quyết được các vấn đề do thời tiết khí hậu đặt ra”.
3. Kiến trúc Việt Nam (sau 1975) trong một đất nước tự chủ, thống nhất
Năm 1975, đất nước thống nhất, KTS hai miền cùng tụ hội dưới mái nhà chung là Hội KTS Việt Nam. Đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, nhưng phải từ sau 1986, khi nước ta đổi mới, thì kiến trúc Việt Nam mới thực sự khởi sắc.
Tại các đô thị, thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Bình Dương…, nhiều công trình kiến trúc lớn, hiện đại có tầm khu vực và quốc tế được xây dựng, mang đến cho kiến trúc Việt Nam một sự đa dạng về hình thức và phong phú về công năng sử dụng. Đó là các công trình Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Bảo tàng Hà Nội, Sân Mỹ Đình, Nhà Quốc hội…
Đội ngũ KTS hôm nay đã trưởng thành, trong đó 70% là KTS trẻ. Bên cạnh bức tranh hoành tráng về nền kiến trúc Việt Nam vẫn còn đó những mảng xám, tối màu. Đó là nhiều thành phố, đô thị phát triển không đồng bộ, manh mún, chắp vá… giữa quy hoạch và thực tế cuộc sống, giữa bảo tồn và phát triển. Đó là những khu đô thị chen chúc những khối nhà cao tầng đồ sộ nhưng lại thiếu không gian xanh, mặt nước, không gian công cộng dành cho trẻ em và người cao tuổi. Đó là những công trình kiến trúc có hình thức kệch cỡm, xa lạ với văn hóa dân tộc, du nhập từ những “bãi thải” của kiến trúc quốc tế, núp dưới cái vỏ “hội nhập” hào nhoáng...
Nhìn lại chặng đường hơn 70 năm phát triển nền kiến trúc Việt Nam, giới KTS càng nhận rõ trách nhiệm nặng nề và vinh quang của mình. “Vì một nền kiến trúc Việt Nam xanh - hiện đại - giàu bản sắc và phát triển bền vững” không chỉ là khẩu hiệu, mà là nghĩa vụ, trách nhiệm phải hoàn thành của giới KTS nói riêng và của tất cả chúng ta nói chung trong thời kì phát triển mới.
Nói về nghệ thuật tức là nói đến xu thế, xu hướng sáng tạo, phong cách, trường phái. Cho đến nay, kiến trúc Việt Nam dường như chưa có trường phái, phong cách còn mờ nhạt, và cũng chưa có cả một xu hướng sáng tác rõ nét nào. Có chăng mới chỉ là con đường đi tìm và bộc lộ cái tạng, cái gu thẩm mĩ của từng tác giả. Và chỉ gần đây thôi, khi không ít công trình của KTS trẻ Việt Nam đã xuất hiện trên các tạp chí chuyên ngành kiến trúc thế giới và giải thưởng quốc tế…, KTS Võ Trọng Nghĩa đã áp dụng các tiêu chí thiết kế xanh vào công trình để tận dụng được ánh nắng, gió và cây xanh nhằm đem lại bầu không khí dễ chịu và trong lành. Các công trình “Gió & Nước” của anh từ Nam ra Bắc được đánh giá cao. Anh cũng thiết kế các công trình quy mô lớn, như Trường Đại học FPT. Các KTS Hoàng Thúc Hào, Nguyễn Hoàng Mạnh... cũng trình hiện nhiều công trình xanh rất sáng tạo, được nhiều giải thưởng trong nước cũng như quốc tế. Năm 2015, Hoàng Thúc Hào đã giành chiến thắng tại Festival Kiến trúc Thế giới (WAF 2015) tại hạng mục “Công trình dân dụng - cộng đồng” với các công trình: Nhà cộng đồng xã Cẩm Thanh (Hội An), Nhà cộng đồng thôn Suối Rè (Hòa Bình), các nhà cộng đồng ở Tả Phìn - Sa Pa, Nặm Đăm... Trong hầu hết những công trình nêu trên, các KTS trẻ Việt Nam đã dành cho những vật liệu địa phương bình thường như gạch ngói, gỗ mộc, đá... một tình cảm trân trọng, sự chăm chút cẩn trọng hay tinh thần khám phá để thiết kế. Với vật liệu quen thuộc, giá không cao, các KTS chỉ tạo nên đường truyền khiêm tốn để gợi cho người sử dụng một thái độ sống gần gũi, trân trọng thiên nhiên. Họ đã đúc rút từ kiến trúc truyền thống những nguyên tắc cốt lõi về tỉ lệ, sử dụng vật liệu địa phương, về bố cục hình khối chặt chẽ theo công năng... để đưa vào công trình hiện đại. Xu hướng này được nhiều nhà sáng tác coi như một trong những hướng tìm tòi đúng đắn và có nhiều triển vọng.
Phải chăng các công trình thô mộc như I-resort, Lam cà phê ở Nha Trang của KTS Nguyễn Hòa Hiệp hoặc các công trình “Gió & Nước” theo hướng sinh thái của KTS Võ Trọng Nghĩa, các công trình mang tính cộng đồng và “xanh” của các KTS Hoàng Thúc Hào, Nguyễn Hoàng Mạnh… tiếp tục đặt ra và đã trả lời được rất nhiều vấn đề lớn của kiến trúc Việt Nam đương đại. Phải chăng kiến trúc của lớp KTS trẻ này mách bảo rằng: Nếu đi tận cùng cái hồn cốt của dân tộc thì kiến trúc Việt Nam hoàn toàn có nhiều cơ hội để hòa đồng, đối thoại với thế giới.
Xu thế “kiến trúc - hiện đại - bản địa” tìm đến sự giao hoà giữa con người với môi trường sinh thái và hình khối công trình. Xu thế này dù chưa hình thành rõ nét như một hệ thống, dù còn phải được tiếp tục vun đắp qua nhiều thử nghiệm hơn nữa, nhưng nếu được chăm sóc, đầu tư chiều sâu thì sẽ ngày càng phát lộ, trở thành một trong những xu thế sáng tạo chính thống, và sẽ tiệm cận tốt hơn với mục tiêu đi tìm bản sắc kiến trúc Việt Nam trong thời gian tới.
(VNQĐ)