Bùi Giáng - Giấc mơ cố quận: Một kiếp lưu đày

03.06.2019

Em thành Mẹ của giang san/ Em là thần nữ đoạn trường chở che.
Không phải tự nhiên mà những nhan đề các tập thơ của Bùi Giáng đều mang theo hình ảnh của núi rừng Quảng Nam như: "Mưa nguồn", "Lá hoa cồn", "Ngàn thu rớt hột", "Màu hoa trên ngàn"... Đặt nhan đề cho các tập thơ như vậy có nghĩa là ông dù đang ở nơi nào hay rong chơi đâu đó vẫn nhớ về cố quận. Đọc thơ của Bùi Giáng, người ta thấy 2 từ "cố quận" xuất hiện nhiều lần. Bùi Giáng làm thơ là để thỏa giấc mơ về cố quận.

Bùi Giáng - Giấc mơ cố quận: Một kiếp lưu đày

Nhưng tại sao Bùi Giáng lại nhắc nhiều đến cố quận? Ấy là vì từ lúc ra đi, ông đi biền biệt, không trở về quê nhà yêu dấu nữa. Ông tự lưu đày mình, có lẽ chịu ảnh hưởng sâu đậm từ tác phẩm "L’exil et le royaume" (Lưu đày và quê nhà) của Albert Camus.

Ông ở miền Nam nhớ quê nhà tha thiết nhưng không muốn trở về, không dám trở về; chỉ trở về một lần duy nhất sau ngày giải phóng. Bởi vì ông muốn tránh nỗi đau tình khi nhớ về người vợ trẻ ngày xưa. Ông không dám động chạm đến nỗi đau nội tại trong chính trái tim của mình.

Cũng như bao lứa đôi khác, Bùi Giáng đã từng có những ngày tháng hạnh phúc bên người vợ trẻ trung, xinh đẹp, nết na. Họ lấy nhau khi còn quá trẻ. Ông Bùi Luân - em ruột Bùi Giáng - nhớ lại: "Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau ngày cưới, người vợ trẻ đã phải lặn lội từ cái thung lũng ngoạn mục nhất đó, xuôi sông Thu Bồn êm đềm với ngàn dâu xanh ngát về nhà bố mẹ chồng ở Thanh Châu cách hàng mấy chục cây số.

Trên chiếc đò bé nhỏ, chàng trai nói với người vợ trẻ:

- Nếu em không đổi ý quay về, không bỏ qua chuyện cũ thì tôi sẽ… nhảy ra khỏi đò!

Khách xuôi đò tưởng người con trai đùa dọa người vợ mảnh dẻ. Để nguyên quần áo, ngay lập tức anh đem mình gieo xuống giữa dòng sông Thu. Và bơi theo đò. Để rồi thả trôi theo dòng nước hết chỗ mấy chục cây số đó, tới tận bến nhà".

Bùi Giáng yêu vợ mình nhưng những rắc rối nho nhỏ như vậy lại khiến một người đàn ông lãng mạn và liều mạng như ông muốn... bỏ nhà đi chơi. Thế nhưng, tình yêu của ông dành cho người vợ khổ ở quê nhà thì rất đỗi mặn mà, vô cùng tha thiết.

Mình ơi, tôi gọi bằng nhà.

Nhà ơi, tôi gọi mình là nhà tôi.

Mười năm sau cái chết của người vợ trẻ, ông phục hiện những hình ảnh yêu dấu xưa. Đó là những dấu tích của người vợ để lại khiến bài thơ nhớ vợ có một không khí rất đỗi bi ai, tràn đầy hoài cảm:

Em chết bên bờ lúa.

Để lại trên lối mòn.

Một dấu chân bước của

Một bàn chân bé con!

Anh qua trời cao nguyên

Nhìn mây buồn bữa nọ.

Gió cuồng mưa khóc điên.

Trăng cuồng khuya trốn gió.

Mười năm sau xuống ruộng

Đếm lại lúa bờ liền.

Máu trong mình mòn ruỗng.

Xương trong mình rả riêng.

Anh đi về đô hội,

Ngắm phố thị mơ màng.

Anh vùi thân trong tội lỗi.

Chợt đêm nào, gió bờ nọ bay sang.

An táng vợ xong, Bùi Giáng bỏ cố quận ra đi. Ra đi nhưng ông vẫn nhớ cố quận, nhớ đến não nùng. Ta hình dung sự mâu thuẫn đó đã thật sự giằng xé một cách khốc liệt trái tim Bùi Giáng.

Ông gọi bà với nhiều tên khác nhau. Đầu tiên, bà được gọi là "gái trần gian". Có thể nói toàn bộ tâm trạng của Bùi Giáng trong "Mưa nguồn", "Lá hoa cồn", "Ngàn thu rớt hột", "Màu hoa trên ngàn" là nỗi đau tình dành cho gái trần gian thân yêu.

Đùa với Tuyết, giỡn với Vân.

Một mình nhớ mãi gái trần gian xa.

Sương buổi sớm, nắng chiều tà.

Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu?

Ông còn gọi bà là "em mọi nhỏ". Bùi Giáng giải thích khái niệm "mọi" trong thơ mình. Bà là con người trong sáng, tinh khiết như giọt sương mùa xuân, giọt sương ban đầu khai sáng tình yêu lứa đôi trong lòng ông:

Mọi em là mọi sương xuân,

Ban sơ núi đỏ chào mừng non xanh.

Thơ ông viết cho "em mọi nhỏ" tràn đầy nỗi thương xót và tình yêu dấu:

Rồi rốt cuộc, em vui cười như thể,

Những tình yêu thương nhớ đã phục hồi.

Tờ giấy mỏng anh tô bồi hồng lệ

Gởi cho em tình mộng đất xa trời.

Giờ ly biệt, ta xin em đừng khóc.

Nào phải không? Lệ chảy có vui gì?

Trang phượng mở giữa nguồn em hãy đọc.

Nước xuôi dòng, ngàn thu hận ra đi.

Mỗi khi Bùi Giáng nhắc đến cố quận là ông nhớ đến người vợ thân yêu. Ông phong tặng người vợ của mình lên thành mẹ của giang san:

Em thành mẹ của giang san,

Em là thần nữ đoạn trường chở che.

 

Từ một con người cụ thể, mảnh mai, bà qua đời và vụt trở thành hình tượng cao quý nhất trong lòng ông, trong thơ ông:

Em thuyền quyên ban mưa móc xum xuê.

Em rắc gieo khắp xứ sở bốn bề.

Suốt địa hạt tình quê hương ba ngõ.

Anh quỳ xuống gọi em: Em mọi nhỏ.

Ở lại giữa quê nhà, có được những tháng ngày lang thang giữ dê đọc sách là một hạnh phúc. Thế nhưng, hình ảnh của "em mọi nhỏ" hiện ra khắp nơi; Bùi Giáng phải hứng chịu nỗi đau tình khôn tả. Chính vì vậy, ông chọn sự ra đi:

Sẽ đi cùng bước chân mùa.

Bóng vang sầu cũ tháp chùa rộng thênh.

Hào hoa bỏ lại bên mình.

Lá thiên thu đẹp làm thinh bên đường.

Song, ra đi không phải là quên được. Cái vang bóng về cố quận, về hình tượng người vợ cứ còn mãi đó trong lòng ông. Tập "Mưa nguồn" thể hiện gần như trọn vẹn tài hoa thi ca của Bùi Giáng - lúc này mới ngoài ba mươi tuổi. Thơ ông thật tuyệt vời; thi ảnh lung linh, thi tứ tràn trề niềm cảm xúc, dịu dàng và lãng mạn bay bổng:

Em về mấy thế kỷ sau,

Nhìn trăng có nhớ nguyên màu ấy không?

Ta đi, gởi lại đôi dòng,

Lá rơi có dội vào trong sương mù?

Lắm khi ở phương xa, ông nhớ cố quận. Đời ông, sau cái chết của bà, trở thành điêu linh thật.

Bờ mây trắng dựng cuối trời bóng dáng,

Của ban sơ hoài vọng giữa nhân gian.

Lòng vạn vật mơ màng chiều qua sáng.

Em về nhanh cho mây trắng buông màn...

Đời xiêu đổ, nguồn xưa anh trở lại.

Giữa hư vô, em giữ nhé, ngần này.


Vũ Đức Sao Biển
(nld.com.vn)