Nhà thơ Tú Mỡ: Trào lộng mà nhân hậu

08.06.2015

Nói đến Tú Mỡ là người ta dễ liên hệ đến bậc đàn anh Tú Xương. Hai ông là những đỉnh cao của thơ trào phúng. Mà đã là thơ trào phúng ắt sẽ phải chạm đến tâm hồn Việt. Tuyệt nhiên không có thứ thơ trào phúng lai căng, nhập ngoại. Tuy nhiên không hẳn vì đi theo con đường trào phúng của bậc đàn anh Tú Xương mà anh công chức tài chính thời Tây Hồ Trọng Hiếu lại chọn bút danh cho mình là Tú Mỡ. Liệu còn một lý do nào khác nữa chăng?

Nhà thơ Tú Mỡ: Trào lộng mà nhân hậu

 



Cuộc đời và sự nghiệp văn chương

Nhà thơ Tú Mỡ, tên thật là Hồ Trọng Hiếu. Ông sinh ngày 14 tháng 3  năm 1900, tại phố Hàng Hòm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội trong một gia đình tiểu thủ công nghèo. Lên 5 tuổi, Trọng Hiếu học chữ Hán với ông nội. Sau khi ông nội mất, cậu bé Hiếu mới chuyển sang học trường tư chữ quốc ngữ với thầy giáo Quý ở phố Hàng Mành. Học được một năm, ông xin chuyển vào học trường công ở phố Hàng Bông, rồi tiếp đến là ở phố Hàng Vôi. Năm 14 tuổi (1914), Trọng Hiếu đỗ đầu bằng sơ học yếu lược Pháp- Việt. Ngay năm sau đấy ông được nhận vào học trường Bưởi (nay là trường THPT Chu Văn An, Ba Đình, Hà Nội). Cùng khóa với ông có Hoàng Ngọc Phách, tác giả tiểu thuyết nổi tiếng “Tố Tâm”, được đánh giá là một trong những tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của Việt Nam và đã được dịch ra tiếng Pháp ngay khi nó vừa xuất bản bằng tiếng Việt.

Chẳng hiểu vì duyên cớ nào, năm lên 16 tuổi, Trọng Hiếu bắt đầu “nhiễm chứng” làm thơ. Ông đã kể lại một cách rất hồn nhiên và hóm hỉnh trong hồi ký của mình rằng: “... tôi quyết tâm học làm thơ. Trước hết tôi mua bộ Hán- Việt văn khảo để nghiên cứu các thể thơ ca, từ, phú, rồi mua những tập thơ của nữ sĩ họ Hồ tên Xuân Hương, rồi đến Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Trần Tuấn Khải... những tác phẩm mà tôi thích đọc nhất...”. Đấy toàn là những bậc thơ tài danh đất Việt... ”

Khi tròn 17 tuổi, chàng thư sinh Hà thành Hồ Trọng Hiếu đem lòng yêu một nữ sinh 15 tuổi ở phố Hàng Bông. Bắt đầu từ thời điểm này, “chứng bệnh” làm thơ của chàng ngày càng nặng thêm. Thật không may cho kẻ si tình, sau khi bài thơ tặng người yêu đầu tiên theo thể thất ngôn bát cú, có tên là “Tương tư” đến tay Hoàng Ngọc Phách, bị chê là mòn sáo. Quả là chẳng có sai, vì ở cái tuổi ấy, vốn không có khiếu thơ tình, nhưng khi tình yêu sét đánh sạt qua tim thì cứ nghĩ gì viết nấy thôi, chứ lấy đâu cảm xúc.

Năm 18 tuổi, Hồ Trọng Hiếu đỗ bằng Thành chung và cuối năm đó, ông xin vào làm thầy ký trong Sở Tài chính Hà Nội cho đến Cách mạng Tháng Tám 1945. Dù không phải là nghề thầy phán, nhưng ngay từ khi bắt đầu đi làm ông cũng đã sáng tác được bài thơ khôi hài đầu tiên, đó là bài “Bốn cái mong của thầy Phán”. Nhưng cũng phải đến lúc chàng thanh niên họ Hồ tên Hiếu 26 tuổi mới bắt đầu có thơ đăng trên “Việt Nam thanh niên tạp chí” và “Tứ dân tạp chí”. Và mãi đến năm 32 tuổi, sau khi gặp Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) năng khiếu thơ trào phúng của Tú Mỡ mới được phát hiện và ngay sau đấy ông được mời tham gia Tự lực văn đoàn. Sau một thời gian ngắn, Tú Mỡ được cử phụ trách mục Giòng nước ngược trên tờ Phong Hóa, một tờ báo chuyên về văn chương, hài hước và trào phúng của nhóm này.

Mùa đông năm 1946, cuộc kháng Pháp bùng nổ, Tú Mỡ thôi không làm ở Sở Tài chính nữa mà lên chiến khu, tham gia kháng chiến bằng ngòi bút trào phúng sở trường quen thuộc. Thời kỳ này, Tú Mỡ ký tên là Bút Chiến Đấu. Ông giải thích: Vì thấy công cuộc kháng chiến là công cuộc nghiêm chỉnh, mình dùng bút danh để đánh địch cũng là việc làm nghiêm chỉnh... cho nên tôi không muốn dùng bút danh cũ là Tú Mỡ. Tú Mỡ là tên đặt đùa, ý là người kế tục nhà thơ bậc thầy Tú Xương. Vả lại, hai chữ Tú Mỡ lúc này ông còn nghe gần với “đú mỡ” (rửng mỡ), có vẻ không được... nghiêm túc. Và từ nay, tôi đặt thơ vào hai mục riêng: loại đánh địch là mục “Nụ cười kháng chiến” và loại ca ngợi tinh thần anh dũng của quân dân là mục “Anh hùng vô tận”. Theo Từ điển Văn học (bộ mới), thì trong lúc kháng chiến, có lần ông bị đối phương bắt nhưng đã tìm cách thoát được.

Năm 1954, chiến tranh kết thúc, ông tiếp tục sáng tác phục vụ cuộc đấu tranh trong giai đoạn mới. Đến năm 1957, ông được bầu làm Phó chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, nay là Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học-  nghệ thuật Việt Nam và là Ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam khóa I.

Tú Mỡ mất ngày 13 tháng 7 năm 1976, tại Bệnh viện Hữu nghị Việt- Xô, Hà Nội, hưởng thọ 76 tuổi.

Sự nghiệp sáng tác của ông đã để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ về nhiều thể loại khác nhau. Về thơ có “Dòng nước ngược”, tập 1 do Đời Nay xuất bản, 1934, tập 2 do Đời Nay xuất bản, 1941. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm giàu tính chiến đấu như: “Nụ cười kháng chiến”, (1952); “Anh hùng vô tận” (1952); “Nụ cười chính nghĩa” (1958); “Bút chiến đấu” (1960); “Đòn bút” (1962); “Ông và cháu” (tập thơ thiếu nhi, 1970); “Thơ Tú Mỡ” (tập thơ tuyển, 1971), cùng một loạt tác phẩm về diễn ca, chèo, tuồng, hát xẩm... Năm 2008, Tú Mỡ toàn tập (gồm 3 tập) được Nhà xuất bản Văn học ấn hành.

Nhà thơ Tú Mỡ từng đã nhận được các giải thưởng sau: Giải nhất về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam, 1951; Giải nhì về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam, 1955; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, đợt II, 2001.

Theo nhà văn Nguyễn Công Hoan thì: Tú Mỡ là người “thuốc lá không hút, chè tàu không nghiện, tổ tôm không biết đánh”. Giữa đám người cầm bút đông đảo “đa ngôn đa sự”, ông có vẻ như sống riêng ra, lấy sự siêng năng cần mẫn làm trọng, lấy cảnh gia đình yên ấm làm vui, không phiêu lưu không mơ tưởng hão huyền, tin rằng thiên đường chỉ có ở trên trần thế, được sống khỏe mạnh, lại có công việc ưa thích đã là tiên cảnh lắm rồi, còn như có gì khó chịu trước sự đời, thì đã có nụ cười hóa giải giúp!...  

Còn Vũ Ngọc Phan trong tác phẩm “Nhà văn Việt Nam hiện đại” thì nhận xét: “Thơ mới ngày nay đã xâm chiếm gần đến đất đai của thi ca Việt Nam... làm cho những tay kiện tướng còn lại của trường thơ cũ như Trần Tuấn Khải, Tương Phố đều phải xếp bút. Tuy vậy, vẫn còn một dòng thơ cũ chảy róc rách, nước thật ngọt ngào, vì nó là thứ nước của nguồn xưa mà người Việt Nam quen uống từ lâu. Tôi muốn nói đến hai tập “Dòng nước ngược” (tập 1 và 2) của Tú Mỡ. Hai tập thơ này đều có cái giọng bình dân rất trong sáng. Chúng ta vốn ưa thích xưa nay: giọng cợt đùa lẳng lơ của Hồ Xuân Hương, giọng nhạo đời của Trần Tế Xương, giọng thù ứng ý nhị của Nguyễn Khắc Hiếu, giọng giao duyên tình tứ của Trần Tuấn Khải; từng ấy giọng thơ, ngày nay ta thấy cả trong hai tập thơ trào trúng của Tú Mỡ... Cũng như Tản Đà và Trần Tuấn Khải, Tú Mỡ viết rất nhiều lối, nào phong dao, nào thù ứng, nào hát xẩm, nào văn tế, nào chầu văn... mà lối nào của ông cũng đều hay cả... Thơ Tú Mỡ thật là thơ có tính cách Việt Nam đặc biệt” (1).

Còn theo Giáo sư Phạm Thế Ngũ trong “Việt Nam văn học giản ước tân biên” (Quyển 3), xuất bản năm 1965 thì: “Trong làng thơ Việt Nam sau 1932, có một cây bút không mới chút nào... vậy mà ngự trị thường xuyên trên báo Phong Hóa  Ngày Nay' và được độc giả thời ấy rất ham coi, đó là cây bút trào phúng Tú Mỡ... Thơ ông chịu ảnh hưởng rõ rệt thơ cũ… từ cảm hứng đến thể cách. Ông sáng tác đủ loại: thơ Đường, phú, văn tế, lục bát, hát nói, hát xẩm, chầu văn... Nói rằng ông đã tiến hơn tiền bối thì quá đáng, song ở ông cũng đã có một lời thơ hoạt bát, cách gieo vần tài tình, giọng dí dỏm tự nhiên và biết mượn tình cười để chinh phục người ta... Sau Tú Mỡ (và đồng thời ông nữa) trên khắp các báo, người ta làm thơ trào phúng nhan nhãn, nhưng dễ chừng không ai bắt chước được tác giả “Giòng nước ngược”(2)

Sự hướng đạo của Nguyễn Tường Tam đối với Tú Mỡ ngay từ thời tập tọng làm thơ là không thể chối cãi được. Thậm chí có ý kiến còn cho rằng nếu không có Nguyễn Tường Tam thì không có Tú Mỡ. Tờ báo đầu tiên mà Tú Mỡ cộng tác là “Phong Hóa” của nhóm Tự lực văn đoàn do Nguyễn Tường Tam phụ trách. Ông đã khuyến khích Tú Mỡ đi vào thơ trào phúng, cho nên mới thành Tú Mỡ... Sau cùng, Tú Mỡ đấu dịu: “Các anh phân tích thế thì tôi đã nghe ra... Chỉ lo trước một điều, quả đất tròn, biết đâu việc đời thế nào, một ngày kia ta bắt sống Nguyễn Tường Tam mà tình cờ lại có Tú Mỡ ở đấy. Xin Chính phủ đừng cử Tú Mỡ ra chém Nguyễn Tường Tam”. Nghiêm nghị, Tú Mỡ nói, không nhìn ai: “Tôi đề nghị các anh như thế” (3)

 

Trào lộng nhưng vẫn rất nhân hậu

Tú Mỡ” hay “Bút Chiến Đấu” đều là bút danh của Hồ Trọng Hiếu do thời vận mà thành. Chỉ nghe những tên bút danh ấy người ta có thể đọc vị được ý nghĩa của chúng. Tuy nhiên, cái tên bút danh Tú Mỡ, ngoài hàm nghĩa Hồ Trọng Hiếu tự nhận mình là hậu bối của nhà thơ trào phúng Tú Xương, còn có một ý nghĩa khác, thực tế hơn và cũng khôi hài hơn. Bởi lẽ ông là một người gầy dơ xương, nên có lẽ gọi là Tú Xương thì mới đúng. Tú là học hết bậc tú tài Tây, còn Xương vì ông lấy đâu ra thịt. Thế nhưng, Tú Xương là bút danh của bậc tiền bối, cùng theo dòng thơ trào phúng, nên người có học, lại đức độ như Hồ Trọng Hiếu không thể để cho thiên hạ nhầm lẫn có hai Tú Xương, nên ông đành chuyển sang bút danh Tú Mỡ, âu cũng là một cách khôi hài và tự trào về dáng vóc gầy còm dơ xương của ông vừa đắc đạo với tiền nhân, vừa đắc chí với chính mình.

Với cái tên bút danh Tú Mỡ, khiến nhiều người nghĩ đến có lẽ đây là ước nguyện da diết và cháy bỏng của một anh chàng toàn da bọc xương mà lại tự xưng mình là Mỡ, chỉ nghe cũng đã thấy phì cười. Ông vua văn xuôi trào phúng, người cùng thời với Tú Mỡ là nhà văn Nguyễn Công Hoan đã chấp bút bài thơ đùa trêu Tú Mỡ từ cái sự “trái khoáy” giữa bút danh và vóc dáng thật của nhà thơ hoàn toàn trái ngược nhau. Đấy cũng là sự lý giải vì sao “Tú Mỡ sống lâu”. Ấy là một lần Tú Mỡ làm thơ “xỏ xiên” Trời, dám gọi Trời là “xừ”. Thực ra đây là cách gọi tắt của từ cũ “me xừ”, cách nói bồi từ tiếng Pháp “monsieur” để đùa hoặc chê bai một ai đấy, chẳng hạn như: “me xừ ấy dạo này rảnh rỗi nhỉ”. Thậm chí Tú Mỡ còn có lúc bảo Trời là đồ “xỏ lá ba que”, khiến Trời phải sai Thiên Tào đi dò la khắp thiên hạ để tìm bắt Tú Mỡ về “trị tội”. Bởi theo logic thông thường thì Mỡ ắt sẽ phải... béo. Cho nên khi đi khắp hạ giới Thiên Tào chỉ chú trọng đến cái tên “Mỡ” ấy theo phương châm là:

Bắt thằng béo kẹp kìm lòi mỡ

Phớt lờ đi những đứa gầy còm.

Kết cục là Tú Mỡ đã lọt lưới Trời mà sống thọ đến tuổi “cổ lai hy” vì thoát được sự truy xét của Thiên Tào. Lại là một cách đùa hóm hỉnh và rất thông minh của ông vua truyện trào lộng Nguyễn Công Hoan.

Nhưng ở Tú Mỡ, bên trong cái buồn cười, đầy vẻ trào lộng ấy lại là một con người rất mẫn cán với công việc và nhân hậu với cuộc đời, bằng hữu, đặc biệt là với người thân trong gia đình.

Sinh thời Tú Xương cũng đã có bài thơ “Thương vợ” viết theo thể thất ngôn bát cú hay đến mức nhiều nhà nghiên cứu lịch sử văn học và các nhà lý luận đã xếp bài thơ này vào loại mẫu mực của thể loại thất ngôn bát cú:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo xèo mặt nước buổi đò đông.

 

Một duyên hai nợ, âu đành phận

Năm nắng mười mưa, dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!

Có chồng hờ hững cũng như không!

Không những thế, bài thơ còn là mẫu mực về tình nghĩa vợ chồng, đạo phu thê từ trước tới giờ, đáng để cho nhiều người trong chúng ta soi vào tấm gương ấy.  

Còn bài thơ “Khóc người vợ hiền” của Tú Mỡ được viết theo thể song thất lục bát khá dài. Dù dài, nhưng vì là bài thơ quá hay nên tôi trích nguyên văn ra đây để mọi người cùng thưởng thức:

Bà Tú ơi! Bà Tú ơi!

Té ra bà đã qua đời, thực ư?

Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,

Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao

Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào,

Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai

Đâu bóng dáng con người thùy mị,

Tuy tuổi già xấp xỉ bảy mươi,

Vần còn khỏe mạnh, vui tươi,

Le te, nhanh nhẹn như thời xuân xanh.

Nhìn sau lưng vô tình cứ ngỡ

Một cô nào thiếu nữ thanh tân.

Vậy mà cái chết bất thần

Cướp bà đi mất, vô ngần xót xa!

Tôi được bà vợ hiền thuần thục,

Cảm thấy mình tốt phúc bao nhiêu!

Đôi ta cùng một cảnh nghèo,

Đạo chồng vợ lấy chữ yêu làm nền.

Nhớ khi giường bệnh đã nằm,

Bà còn thủ thỉ tình thâm thương chồng

“Tôi mà chết thì ông sẽ khổ,

Vì, cứ theo câu cổ ngữ ta

Xưa nay con cái nuôi cha

Cũng không chu đáo bằng bà nuôi ông.”

Bà ơi, hãy dầu lòng yên dạ,

Giấc nghìn thu cho thỏa vong hồn,

Bà đi, đã có dâu con,

Một lòng phụng dưỡng, chăm nom bố già.

Tôi có khổ, âu là chỉ khổ

Vì thiếu bà, nhà cửa vắng tanh,

Khổ khi thức giấc tàn canh

Bên giường trống trải một mình nằm trơ.

Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước

Pha ấm trà chén nước mời nhau.

Giờ tôi chẳng thấy bà đâu,

Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi...

Khổ những lúc ra sân mê tỉnh

Ngắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang,

Mà bà khuất núi cho đang,

Quả cau tươi, lá trầu vàng ai xơi?

Khổ trông thấy cái cơi còn đó,

Đã khô trầu, khô vỏ, khô cau.

Ba thước đất đã vùi sâu

Cặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươi

Ngẫm: cảnh già cuộc đời sung sướng,

Tưởng vợ chồng còn hưởng dài lâu

Không ngờ con tạo cơ cầu,

Bà đi, để tủi để sầu cho tôi

Ôi! Duyên nợ thế thôi là hết,

Năm mươi năm thắm thiết yêu nhau!

Bà về trước, tôi về sau

Thôi đành tạm biệt, nuốt sầu gượng vui

Bà đi rồi nhưng tôi phải ở,

Công việc đời còn dở tí thôi,

Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi,

Về nơi cực lạc, lại tôi với bà...

Kể từ cổ chí kim, phần lớn các đức ông chồng đều thương yêu vợ, vì dẫu sao họ cũng mang trong mình phận chân yếu tay mềm, nhưng đã gắn bó nhiều năm tháng cuộc đời với mình, lo gánh vác việc nhà, yêu chồng, thương con, nhưng mà thương được như Tú Mỡ hồ dễ chỉ đếm đầu ngón tay. Theo tôi, đây là bài điếu văn bằng thơ hay là một bài thơ khóc vợ hay nhất từ trước đến nay. Nếu một bài thơ hay được nhìn nhận tùy thuộc vào cái tình mà tác giả gửi gắm vào đấy chân thành, thiêng liêng và mặn nồng đến mức nào, thì đây đích thức không có bài thơ nào khóc vợ hay hơn thế. Điều ấy cho thấy tình cảm thắm thiết và tấm lòng nhân hậu của nhà thơ đối với người bạn đời không có gì sánh bằng. Dù nỗi đau mất người vợ hiền đến tột độ, nhưng Tú Mỡ vẫn không giấu nổi sự trào lộng vốn có của mình, khiến người đọc không cảm thấy bị quá sốc, mà cứ lịm ngọt nỗi đau thấu tậm gan ruột. Đấy chính mới là nỗi đau đích thực không gì có thể bù đắp được.  

Những bài thơ viết cho thiếu nhi sau này của Tú Mỡ càng cho thấy ông là một người càng hóm hỉnh bao nhiêu, càng đôn hậu bấy nhiêu, đặc biệt là bài “Thương ông” đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa để dạy cho các em nhỏ. Bất kỳ ai đọc bài thơ này cũng dễ dàng nhận ra đằng sau sự hóm hỉnh là một tấm lòng hết mực thương yêu của người ông đối với đứa cháu bé bỏng của mình.

Bài thơ rất giản dị được viết theo thể bốn chữ dễ đọc và dễ hiểu. Nhưng quan trọng hơn là ông vua thơ trào phúng Tú Mỡ đã tìm được cách nói đúng với tâm lý lứa tuổi của cả ông lẫn cháu, rất hợp với lứa tuổi trẻ thơ, với tình cảm ông cháu hơn cả về giọng điệu và ngôn từ. Dù có thể đây là cảm xúc về một điều có thực từng diễn ra với hai ông cháu nhà thơ Tú Mỡ, hay chỉ là trí tưởng tượng của người nghệ sĩ, thì vẫn là một tình cảm đẹp được nhìn qua lăng kính trào lộng, hóm hỉnh của người ông, khiến nó trở nên gần gũi, thân quen hơn với lứa tuổi thiếu niên của nhiều thế hệ. 

Đỗ Ngọc Yên

--------------------------------

Tham khảo:

(1). Lược theo Nhà Văn hiện đại (4 tập, 1942-1945) của Vũ Ngọc Phan. Nxb Văn học, H, 2008

(2). Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học giản ước tân biên. Văn học hiện đại  1862-1945. Quốc học tùng thư xuất bản, năm 1965.

(3). Cát bụi chân ai. Hồi ký của nhà văn Tô Hoài. Nxb Hội Nhà văn, H, 1992.

 (Vanhocquenha.vn)