Thơ Hồ Thấu

11.07.2021
Nguyễn Nho Khiêm chọn và giới thiệu
Hồ Thấu sinh năm 1918 tại làng Trung Thái, thôn Phú Bông, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), trong một gia đình Nho học, con trai thứ 8 của cụ Hồ Hoàng, em trai ông Hồ Nghinh (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Ban Kinh tế Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh QN-ĐN).

Thơ Hồ Thấu

Thời còn học tại trường Quốc học Huế, ông nổi tiếng là một người học giỏi, tài hoa cả về thơ, nhạc. Theo ông Hồ Liên (tức Hoàng Bích Sơn, nguyên Ủy viên T.Ư Đảng, nguyên Trưởng Ban đối ngoại Trung ương, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy Ban Đối ngoại Quốc hội) - em trai Hồ Thấu: "Trong 4 người anh của tôi học ở trường Quốc học Huế, anh Hồ Thấu không phải là người học giỏi nhất, nhưng là người có tài năng nhất". Ông học cùng khóa với nhà thơ Tố Hữu và sau nhà thơ Huy Cận. Tại quê nhà, năm 1940, ông cùng anh trai Hồ Nghinh và một số người cùng làng lập trường tiểu học Tân Tân ở Duy Trinh dạy học theo khuynh hướng yêu nước. Sau Cách mạng Tháng 8-1945, Hồ Thấu bước hẳn vào con đường chính trị, sau đó được phân công giữ chức Chủ nhiệm Mặt trận Liên Việt tỉnh Quảng Nam.

Hồ Thấu mất năm 1949 vì bệnh tật hiểm nghèo, tuổi đời vừa tròn 31.

Văn nghệ Đà Nẵng trân trọng giới thiệu chùm thơ cùa Hồ Thấu do gia đình, người thân và bạn bè ông sưu tầm.

 Bìa tập sách xuất bản nhân Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh  Hồ Thấu (1918 - 2018)

 XA TRÔNG


Gió vàng thổi rốc bụi hồng tung
Chiến sĩ bao nhiêu biển dặm trường
Từ độ mai tàn nay cúc nở
Mỏi mòn chinh phụ mắt xa trông.
                                              1941


LÊN ĐƯỜNG
 
Bạn có nghe muôn trùng sóng dậy,
Bạn có thấy khắp nhân gian máu chảy
Đời lên rào rạt triều mênh mông
Lửa hận muôn trùng cháy núi sông!
 
Bạn có nghe tiếng réo gọi của muôn đời nô lệ
Bạn có thấy chất chồng địa cầu sầu thế hệ
Bi sử lòng dày chứa man man
Bao đời lao khổ hờn chưa tan!
 
Lớp lớp vùng lên đội quân ánh sáng
Chí mạnh gan bền hồn tươi thanh đản
Sôi sục đứng lên phá xích xiềng
Cõi lòng vô sản chứa vô biên...
 
Đã mấy công trình kiêu hãnh
Xây trên xương tàn máu lạnh
Đây Kim Tự Tháp gạch còn nghe răng rắc xương nông nô
Đây Vạn Lý Trường Thành tường mênh mông còn ướt lệ nong nô
 
Và đây chất chồng ngạo nghễ
Lâu đài tư bản vút mây xanh
Dựng trên mồ hôi nước mắt trong lành
Của nhân loại lầm than toàn thế giới.
 
Tay cường bạo khóa ngục tù vĩ đại
Hãm trần gian trong lửa thép mênh mông
Đời xây trên bất công
Đời xây trên áp bức
 
Ai hút máu của muôn loài lao lực
Sống phù hoa trên thi thể nhân gian
Kiếp nô lệ ngập chìm bao bể cực
Đang quặn đau trong giá lạnh đêm tàn!
 
Kẻ lo chi định mệnh
Kẻ ôm chi kinh thư
Kẻ chờ chi ngày tạnh
Kẻ mơ chi trường tư!
Hãy đứng dậy lên đường
Nhập vào lòng biển cả
Đời không còn xa lạ
Đời chỉ là mến thương
                                   1944
                          (Lê Đào sưu tầm)


NHỚ ĐƯỜNG
 
Nắng reo ta nhớ đường xa
Nhớ đàn bướm trắng nhớ hoa ven rừng
Đường đi sông núi không ngừng
Lưng đèo gió thổi đò dừng bóng trưa
 
Quán ai bát nước chiều mưa
Lỡ làng tâm sự chuyện xưa ngại ngùng
Hoàng hôn núi chất trùng trùng
Chân xao suối lạnh ven rừng hát vang
 
Mai sương gió lặng núi ngàn
Đầu non nắng hé ánh vàng đổ tuôn
Hàn huyên câu chuyên đầu truông
Can trường chinh chiến chim muông động lòng
 
Đường rừng đôi lứa song song
Tiếng cười hòa ánh nắng hồng reo ca
Đường rừng dần trải mù xa
Chân đèo giấc trở canh gà... chuyện vui.
 
Ai đi những sớm mai tươi
Từng đoàn tắm nắng sáng ngời chí trai
Ai đi sứ mệnh nặng vai
Lòng vui nhiệm vụ chẳng nài gian lao
 
Nằm đây ta nhớ... thao thao...
Nhớ sông nhớ núi rạt rào bốn phương
Bao giờ gió mới gặp hương
Trời xanh chân rộng... dặm trường thênh thênh
                                                           1947
 
 
GỞI TRẦN ĐÌNH TRI
 
Bài 1
Bạn đau nằm bên sông Thu
Ta đau nằm bến sa mù viễn đông
Bạn buồn ra ngắm núi sông
Ta buồn ta ngắm mênh mông nước trời
                                              1947
                              (Hoàng Minh Nhân sưu tầm)
  
Bài 2
Bạn đau nằm bến sông Thu
Ta đau nằm tít xa mù biển đông
Bạn buồn ra ngắm núi sông
Ta buồn ra ngắm mênh mông biển trời.

                                                 (Lê Đào sưu tầm)


 NHỚ TRINH ĐƯỜNG


Bạn đau nằm bến sông Thu
Ta đau nằm tít xa mù biển đông
Bạn buồn ra ngắm núi sông
Ta buồn ra ngắm mênh mông biển trời
Đôi hồn lận đận đôi nơi
Nhớ thương đã lắm... buồn... thôi... cũng nhiều
Ở đây nam sớm nồm chiều
Lòng ta nhớ bạn như triều nước lên
Mênh mông thôi quá mênh mông
Mình ta bé nhỏ lênh đênh canh trường
Mình ta nghe ngóng đại dương
Mình ta ngóng gió bốn phương thổi về
Mình ta đơn hận sơn khê
Một chiều khói lửa bốn bề binh đao...
                                                   1948
                                                (Lê Đào sưu tầm)


 GỞI KỲ


Kỳ ơi, ta chết rồi đây
Huyệt chờ trên nội kiếp này phụ nhau
Tiệc vui tóc vẫn xanh đầu
Ga đời còn mấy chuyến tàu nhạt hương
Nhưng thôi ta chết giữa đường
Dưới trên mặt đất sầu thương cũng rồi
Chiến trường ai khóc chia phôi
Khải hoàn ai nhớ đến người hôm qua
Chừ đây ôn lại đời ta
Một đời trong trắng như hoa giữa đồng
Ái ân chưa bận tấc lòng
Bạc tiền chưa bẩn túi không bao giờ
Trong đời chỉ đẹp và thơ
Yêu đời dù đến ngẩn ngơ cũng đành
Mắt say hớp mảnh trời xanh
Miệng say uống ngợp gió lành bốn phương
Phút giây hút trọn nhụy hương
Tơ tằm xưa trước Nghê thường mai sau

Thấy đời còn quá khổ đau
Mắt xanh sầu nhớ những màu đục nhơ
Lên đường như đứa trẻ thơ
Kể gì nguy hiểm bụi bờ chông gai
Một lòng tin chắc tương lai
Trời xanh thơ đẹp không ai riêng mình
Kỳ ơi chim hót rất thanh
Khi đời thiếp giấc gió lành im hơi
Mình ta lặng ngắm mảnh trời
Sao khuya thỏ thẻ trao lời đêm thâu
Với đời ta chết từ lâu
Với ta đời vẫn một màu tươi son
Nằm đây thân đã héo mòn
Miếu con là mộ giường con là hòm
Mắt vừa ngưỡng cửa hoàng hôn
Trông đây giải đất linh hồn hồi sinh
Mai tàn dậy ánh bình minh
Trông ra trời đất thấy mình còn đây
Ở cùng hoa lá cỏ cây
Trần gian thân nặng những ngày lênh đênh
Mai kia rộn bước đời lên
Chiều về bóng mát gió hiền trái sây
Chiều lui vàng đổ xuống ngày
Tưng bừng khắp nẻo đời say bóng đời
Đêm về nghe nhạc lên khơi
Quanh ta ngả trúc ngỏ lời ca vang
Hồn ru theo bước nhịp nhàng
Ta vừa thiếp giữa thênh thang biển tình
Giấc nồng khuya tỉnh chiều thanh
Nghe đời vời vợi châu thành người đi
Triều lên bốn bể uy nghi
Đồng bào đang diệt tà phi bạo cường
Bạn thân đâu đã lên đường
Anh em những quyết lấy xương quân thù
Ngày mai rồi hết âm u
Quanh ta lửa hận mịt mù cháy lên
Cháy lên cho vỡ màn đêm
Cho trong mắt ngọc cho êm nhạc huyền
Cháy lên cho sạch ưu phiền
Cho lòng tươi sáng cho duyên đượm đà
Cháy lên cho nở ngàn hoa
Cho người xứ xứ kết hòa lòng thương
Cháy lên cho khắp mười phương
Sáng soi vũ trụ mở đường nhân gian
Kỳ ơi chừ nhớ trăng ngàn
Nói gì với bạn cho tàn đêm thâu
Mắt ta khô lệ từ lâu
Mà lòng vẫn thấy tủi sầu nhân gian
Chết đi như khách qua đường
Ôm đầy hoa lá giàu sang xuống mồ
Chiều lên theo nẻo đẹp thơ
Ra đi chỉ tiếc cuộc cờ thiếu tay
Lên đường vững bước mà say
Ta vừa thức giấc sáng đầy bình minh
Kỳ ơi chừ bạn với mình
Nói gì thêm nữa mối tình chứa chan
Biết nhau duyên đã muộn màng
Tri âm chưa mấy vội vàng chia ly
Thơ ta Kỳ hãy ngâm đi
Tơ tằm xưa trước giọt tỳ ánh trăng.

                                                 1948
                               (Hoàng Minh Nhân sưu tầm)
  
MÙA THƠM (*)
 
Ai lạ ngàn khơi sầu số kiếp
Đến đây nhập hội lá hoa duyên
Thời gian ngừng đọng rêu thành đá
Từng giọt hồn tan nước động thuyền
 
Ai lạ khổ đau đời chật hẹp
Đến đây nghe gió quyện bao la
Mênh mông trời biếc lòng trinh nữ
Ấp mãi tình mơ trên đá hoa
 
Từ những bao giờ ai đến đây
Ghi tên vào đá gởi làn mây
Người đi mấy kiếp luân hồi nhỉ!
Tên tuổi trơ vơ cát bụi đầy
 
Chở hồn lên đỉnh Ngũ Hành Sơn
Nhìn xuống nhân gian ngút khí hờn
Ai hãm cuộc đời trùng lửa thép
Ai băng đường máu đến mùa thơm
                                                    1946
                                         (Hứa Văn Ân sưu tầm)
(*) Theo lời ông Vũ Quang Thành – một học trò cũ của Hồ Thấu, bài thơ này còn có tựa đề là “Sang mùa”, được Hồ Thấu viết năm 1946, khi đang làm việc tại Ủy ban Liên kiểm Việt - Pháp tại Đà Nẵng.


 
QUÊ HƯƠNG


Chiến khu mưa chiều đổ
Buồn vây nhớ quê hương
Nhà ta trống cửa ngõ
Giặc đốt trơ mảnh tường
 
Láng giềng vui mấy kẻ
Lạnh tanh còn ai đâu
Người tản cư lặng lẽ
Người chết chôn không sâu
Làng ta mấy trận đốt
Nhà cửa liệt tro tàn
Cây cối thiêu xơ xác
Đất chết đồng bỏ hoang
 
Không gà gáy, chó sủa
Không giọng hát đưa em
Bếp trưa không đỏ lửa
Hoàng hôn không ánh đèn
 
Nằm giữa ba đồn giặc
Rực rỡ lò hy sinh
Trên tro hồng máu đọng
Anh hùng lớp lớp sinh
 
Sáng ngời màu tử chiến
Da nám sắc lửa hồng
Tóc rối bừng đêm biếc
Mắt sáng ánh dao găm
Anh hùng mới mười tuổi
Du kích trốn mẹ cha
Đầu bạc không hề cúi
Chửi giặc chết cười khà
 
Anh hùng đoàn cảm tử
Quấn gót thù không ly
Anh hùng thân nhi nữ
Vào đồn giắt thù đi
 
Quặn đau từng thớ thịt
Trong non nước Việt Nam
Làng ta vui dũng liệt
Say gian khổ hờn căm
 
Chiều nay ai chết nữa
Mặt quen hay tình thân
Chụm hồn trong khói lửa
Cho ngày mai trong ngần
 
Chiến khu buồn dựng núi
Thương bạn lắm bạn ơi
Bạn ngồi trong lửa rụi
Tay máu đắp ngày mai
 
Ngày mai rồi rực rỡ
Làng ta còn những ai
Tay mạnh và miệng nở
Dựng huy hoàng tương lai.
                               1947
                    (Hứa Văn Ân và Hồ Thị Thuẩn sưu tầm)
 
H.T