Đội ngũ lý luận phê bình văn học trẻ ở Việt Nam sau 1975
Nhà văn Hồ Thế Hà
1.Nhìn nhanh về lý luận – phê bình văn học Việt Nam trước 1975
Sáng tạo văn học, lý luận văn học và phê bình văn học bao giờ cũng đồng hành và tác động hỗ tương lẫn nhau để làm nên tiến trình văn học một dân tộc. Nhưng có một thực tế là đội ngũ làm công tác lý luận phê bình bao giờ cũng ít hơn đội ngũ sáng tác. Cắt nghĩa và lý giải điều này, lâu nay được các nhà nghiên cứu cho rằng lý luận phê bình thường khô khan hơn, mất nhiều công sức đào tạo và tự đào tạo; chưa kể, việc học tập và ứng dụng nó vào tác phẩm để bình giải và phân tích, giải mã lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Lại nữa, chủ thể lý luận, phê bình phải đối diện với hàng loạt các trường phái, khuynh hướng và phương pháp nghiên cứu văn học trên thế giới luôn vận động, thay thế và liên tiếp xuất hiện. Ngày nay, trong thời đại công nghệ tin học, internet chiếm lĩnh và trở thành không gian phẳng (flat space), thì các nhà lý luận, phê bình lại càng đứng trước những thử thách mới khắc nghiệt và nhiều khi họ thấy mình bất lực, có khi tụt hậu so với sáng tác. Lý luận phê bình, vì vậy có nhiệm vụ kép là phải nắm bắt, tiếp nhận những phương pháp nghiên cứu mới, đồng thời vận dụng chúng vào thực tiễn sáng tác để tạo hiệu quả nghiên cứu mới. Sự trừu xuất thành hệ thống lý luận từ thực tiễn sáng tạo và vận dụng lý luận ấy vào phê bình từng không gian văn học cụ thể bao giờ cũng diễn ra với nhiều hệ quả khác nhau. Có khi có sự tương thích và thành tựu, nhưng đồng thời, cũng có những so le hoặc giới hạn cụ thể. Chưa kể, chính các hệ thống lý luận cũng luôn bị những giới hạn và sớm muộn gì cũng phải bị thay thế và phủ định bởi những thực tiễn và nhu cầu mới của quá trình sáng tạo và tiếp nhận.
Trong khi đó, lĩnh vực sáng tác có phần tự do hơn. Nhà văn, nhà thơ sáng tác theo nhu cầu thể hiện cảm xúc, tâm trạng và vốn sống trực tiếp của mình. Họ có con đường riêng và mục tiêu riêng trong quá trình phản ánh cuộc sống và con người bằng hình tượng thông qua chất liệu ngôn từ cũng rất đặc trưng theo tài năng và phong cách riêng của mỗi người.
Và như một quy luật, có sáng tạo là có tiếp nhận. Sáng tạo văn học đi trước, lý luận và phê bình văn học hình thành sau. Nhưng khi đã hình thành rồi thì cả ba đều đồng hành, vận động, tác động hỗ tương và chuyển hóa cùng nhau để làm thành tiến trình văn học của một dân tộc. Qua từng giai đoạn văn học, từng thời kỳ, các nhà văn, các nhà lý luận phê bình nối tiếp nhau hình thành, tạo thành tiếng nói và phong cách riêng cho từng giai đoạn, từng thời kỳ với sự tiếp biến sáng tạo riêng từ những hệ hình lý luận và mỹ học khác nhau trên thế giới.
Với tư cách là những bộ phận quan trọng của Khoa Nghiên cứu văn học, lý luận văn học và phê bình văn học luôn bám sát vào đời sống học thuật và sáng tạo văn học để làm chức năng “mỹ học đang vận động” của mình như Belinsky đã nói. Các nhà lý luận và phê bình chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp đã xuất phát từ sự phong phú của cả nền văn học, đặc biệt ưu tiên những tác giả, tác phẩm đương đại để giải mã, chỉ ra những giá trị chỉnh thể trong tính đa dạng và đa trị của chúng tùy theo hướng tiếp cận và hệ hình nghiên cứu của từng nhà phê bình. Theo đó, những hệ quả phê bình xuất hiện và thành tựu cũng đa dạng và đa thanh. Có xu hướng nhận thức lại, đánh giá lại những thành tựu của phê bình, lý luận và sáng tác quá khứ; có xu hướng bổ sung hoặc đề xuất mới từ những nội dung chỉnh thể của tác phẩm để làm đầy nghĩa cho chúng; có xu hướng vận dụng các lý thuyết hiện đại, hậu hiện đại trên thế giới để giải mã những không gian văn học tương ứng… Các nhà lý luận phê bình văn học Việt Nam trước năm 1975, đặc biệt là từ ba thập niên cuối thế kỷ XX đến những thập niên đầu thế kỷ XXI liên tục xuất hiện những công trình, chuyên luận nghiên cứu có giá trị. Chỉ riêng lĩnh vực phê bình các thể loại văn học Việt Nam hiện đại sau 1945 đến 1975, ta có thể ghi nhận công lao đổi mới của nhiều thế hệ nhà lý luận phê bình chuyên nghiệp nổi tiếng như: Hoàng Trinh, Hà Minh Đức, Phong Lê, Phương Lựu, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Hữu Tá, Đinh Xuân Dũng, Trần Đình Sử, Mai Quốc Liên, Mã Giang Lân, Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến, Lê Ngọc Trà, Lã Nguyên, Phan Trọng Thưởng, Trần Đăng Suyền, Trương Đăng Dung, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Bá Thành, Huỳnh Như Phương, Đỗ Lai Thúy, Mai Hương, Lộc Phương Thủy, Đào Tuấn Ảnh, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Phan Thu Hiền, Nguyễn Thị Minh Thái, Lưu Khánh Thơ, Lý Hoài Thu, Đoàn Thị Đặng Hương, Nguyễn Thị Bình, Lê Lưu Oanh, Tôn Phương Lan, Bích Thu, Trịnh Bá Đĩnh, Văn Chinh, Nguyễn Thành Thi, Chu Văn Sơn, Nguyễn Đăng Điệp, Đào Duy Hiệp, Văn Giá, Lê Huy Bắc…
Có được những động thái và hệ quả ấy, chính là nhờ luồng gió đổi mới (1986) mà Đảng khởi xướng và cổ động. Và bên cạnh đó là sự du nhập các lý thuyết nghiên cứu văn học hiện đại thế giới vào nước ta. Chúng đã kích hoạt ý thức đổi mới lý luận phê bình văn học của từng chủ thể. Có thể nói, đời sống lý luận phê bình văn học những năm qua ở Việt Nam diễn ra khá dân chủ, linh hoạt và có những thành tựu đáng kể. Qua đó, nó tác động và đồng hành với sáng tạo văn học một cách thiết thực và liên tục.
Căn cứ vào thành tựu lý luận phê bình văn học ở nước ta từ đầu thế kỷ XX đến 1975, có thể thấy rằng, ở giai đoạn nào, thời kỳ nào cũng có những nhà lý luận phê bình trẻ, tài năng và giàu cá tính sáng tạo tiếp nối. Họ luôn góp tiếng nói và phong cách của thế hệ mình để làm nên diện mạo văn học, làm nên đời sống học thuật sinh động cho cả tiến trình văn học. Và như một thực tế sinh động, các nhà lý luận phê bình văn học trẻ ấy rồi cùng già, cũng bị thay thế bởi những thế hệ trẻ khác nối theo nhau làm cuộc chạy đua tiếp sức, hướng khát vọng đổi mới văn chương, học thuật về chân trời phía trước.
2. Đội ngũ lý luận phê bình văn học trẻ sau 1975
Ở nước ta, từ sau 1975, đặc biệt là từ Đổi mới (1986) đến nay đã có sự kế thừa và chuyển giao thế hệ đầy ngoạn mục. Những điều kiện cần và đủ để hình thành một thế hệ các nhà lý luận và phê bình trẻ đã thực sự chín muồi và diễn ra hợp quy luật. Chưa có thời kỳ nào từ trước đến nay lại xuất hiện một đội ngũ những nhà lý luận phê bình văn học trẻ nhiều, nhanh và đạt thành tựu mới mẻ như vậy. Họ hùng hậu, đông vui. Họ có trình độ văn hóa và trình độ phê bình chuyên nghiệp cao; có đam mê và giàu sáng tạo. Họ ưa chuộng cái mới, nhiều lúc đến thái quá, vượt ngưỡng nữa là khác. Họ có trình độ ngoại ngữ và tiếp kiến, tiếp biến nhiều tư tưởng mới từ các hệ thống lý thuyết phương Tây nên sự vận dụng vào từng không gian văn học tương thích để giải mã tác phẩm nhìn chung là rất phong phú và hiệu quả. Có thể kể ra tên tuổi những nhà phê bình trẻ từ 30 – 50 tuổi hiện nay như: Trần Huyền Sâm, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Phùng Gia Thế, Phùng Ngọc Kiên, Mai Liên Giang, Đoàn Ánh Dương, Phạm Văn Ánh, Trần Ngọc Hiếu, Đỗ Văn Hiểu, Phan Tuấn Anh, Nguyễn Mạnh Tiến, Hoàng Thuỵ Anh, Nguyễn Thanh Tâm, Cao Việt Dũng, Ngô Hương Giang, Mai Anh Tuấn, Đoàn Minh Tâm, Thái Phan Vàng Anh, Hoàng Đăng Khoa, Hoàng Tố Mai, Nguyễn Văn Thuấn, Hoàng Thị Huế, Nguyễn Văn Hùng, Phan Trọng Hoàng Linh, Nguyễn Thành Trung, Trần Đăng Trung, Lê Nguyên Long, Trần Văn Trọng, Trần Thiện Khanh, Hoàng Cẩm Giang, Nguyễn Đức Toàn, Cao Kim Lan, Bùi Thanh Truyền, Nguyễn Thị Kim Ngân, Đỗ Thị Thu Huyền, Nguyễn Thanh Tâm (nữ), Phạm Minh Quân, Huỳnh Thu Hậu, Trương Trọng Nghĩa, Nguyễn Trọng Hiếu, Nguyễn Anh Vũ, Bùi Bích Hạnh, Võ Như Ngọc, Nguyễn Anh Dân, Ngô Minh Hiền, Hồ Tiểu Ngọc, Võ Minh Nghĩa, Phạm Khánh Duy… Họ đã nối tiếp nhau với tư cách cùng thế hệ (the same generation) để làm nên dàn đồng ca thống nhất về nền tảng văn hóa – triết mỹ, nhưng đa thanh và đa dạng và đa sắc theo cá tính và phong cách riêng với hướng tiếp cận lý thuyết sở trường riêng của từng chủ thể.
Đây là một thực tế mà cũng là một quy luật. Với thời đại công nghệ, truyền thông thì điều này lại càng hợp quy luật. Và nó phải diễn ra như thế. Vì các phương tiện truyền thông thì bao giờ cũng nhanh, nhạy và trực tiếp về không gian và thời gian. Nó là thế giới phẳng (flat world) và tiếp nhận phẳng (flat reception) rất tiện lợi cho người đọc thời đương đại (contemporary readers). Chức năng giao tiếp qua các phương tiện này rút gần khoảng cách về không gian và thời gian, về nhận thức thẩm mỹ cho cộng đồng người đọc.
Điểm đáng quan tâm ở thế hệ nối tiếp này là họ đều có động thái và nhận thức đúng đắn về vai trò của Lý luận văn học, Phê bình văn học trong mối quan hệ tổng thể của Khoa Nghiên cứu văn học, bên cạnh Lịch sử văn học và Phương pháp luận nghiên cứu văn học. Với vai trò là “mỹ học đang vận động”, là “sự tự nhận thức của thời đại” và là “ý thức triết học” của văn học theo cách nói của Belinsky, thì quả thật, từ Đổi mới (1986) đến nay, từ những nhà lý luận phê bình trẻ nói trên, nền lý luận phê bình đương đại nước ta đã thực sự tạo ra hiệu quả mới và mỗi người đều có vị trí riêng của mình trong đời sống văn học cộng đồng.
Các phương pháp nghiên cứu, trào lưu nghiên cứu và khuynh hướng nghiên cứu của họ rất đa dạng và luôn cập nhật có sáng tạo khi vận dụng nghiên cứu tác giả, tác phẩm, nhiều hiện tượng văn học nổi bật cũng như giai đoạn văn học, thời đại văn học, hệ hình văn học với nhiều lý thuyết – phương pháp tiếp cận quen thuộc như Thi pháp học, Phong cách học, Văn hóa học, Phân tâm học đến những hệ thống lý thuyết mới du nhập như: Mỹ học tiếp nhận, Tự sự học, Chủ nghĩa cấu trúc, Chủ nghĩa hiện sinh, Nữ quyền luận, Phê bình hậu thực dân, Phê bình sinh thái, Phê bình hậu nhân, Phê bình văn học đồng tính, Văn học phi lý, Văn học huyền ảo, Hiện tượng học, Ký hiệu học, Tường giải học/ Thông diễn học, Loại hình học, Phê bình từ Lý thuyết giới… Và đặc biệt là chủ nghĩa Hậu hiện đại, được du nhập và hiện diện trong nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả lý luận phê bình trẻ được ấn hành đầu thế kỷ XXI đến nay. Công bằng mà nói, sự đa dạng trong nghiên cứu và ứng dụng của các nhà lý luận phê bình văn học trẻ, đa số là thực sự có tìm tòi, sáng tạo, hình thành những giá trị Mới và Khác, tránh được sự ngộ nhận hoặc rập khuôn, máy móc.
Với trình độ văn hóa và phông nền triết mỹ nói chung cộng với trình độ ngoại ngữ và sự nhạy bén trong tư duy khoa học, thao tác khoa học, cũng như trong cái nhìn nghệ thuật đã giúp họ có những bứt phá và tạo đà khá vững chắc khi đi vào từng không gian văn học, từng đối tượng văn học cụ thể. Điều đặc biệt là họ không lặp lại mình và không chồng lấn, dẫm đạp lên nhau. Học tập, kế thừa truyền thống lý luận phê bình của các thế hệ quá khứ, nhưng mỗi người có lối đi riêng và lộ trình riêng trong toàn đội hình. Họ biết phát hiện và đề xuất nhiều hướng nghiên cứu mới. Với văn chương, nghệ thuật, điều này là cần thiết và dân chủ, góp phần khẳng định vững chắc cho sự phát triển vững mạnh của Khoa Nghiên cứu văn học.
Bên cạnh sự quan tâm hướng đến các trào lưu, khuynh hướng lý luận phê bình văn học thế giới thuộc trào lưu chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại là tiêu điểm chung, ta thấy mỗi người trong thế hệ này đều có ý thức rẽ sang quan tâm chuyên sâu một vài lĩnh vực sở trường mà mình lựa chọn và có ý hướng ngay từ điểm xuất phát nghiệp văn. Ta có Đoàn Ánh Dương chuyên chú về mảng văn chương gắn với tâm thức và không gian lịch sử dân tộc và hậu thực dân, Nguyễn Mạnh Tiến nghiêng về dân tộc học và tâm lý học tộc người, Trần Ngọc Hiếu xuất phát từ lý thuyết trò chơi để nghiên cứu ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện/ hậu hiện đại, Mai Anh Tuấn, Nguyễn Minh Quân hướng về nhân chủng học văn hóa, Phan Tuấn Anh với văn học hậu hiện đại, văn học huyền ảo và văn học ngoại biên, Cao Kim Lan với tu từ học tiểu thuyết, Nguyễn Thị Tinh Thy với phê bình sinh thái, Trần Huyền Sâm với nữ quyền luận và phân tâm học, Ngô Hương Giang gắn lý luận văn học với triết mỹ, hiện tượng luận và thông diễn học, Nguyễn Văn Thuấn với nghệ thuật liên văn bản, Phùng Ngọc Kiên với hệ quy chiếu trường văn học, Lê Nguyên Long với văn chương kỳ ảo và ký hiệu học, Hoàng Cẩm Giang với nghệ thuật hậu hiện đại, Trần Đăng Trung với văn học chấn thương, Cao Việt Dũng gắn với lý thuyết diễn ngôn, Nguyễn Thanh Tâm, Hoàng Thụy Anh gắn với loại hình học tác giả và tác phẩm… Vậy là, xuất phát từ cái nền văn hóa, triết mỹ chung mà họ đã tiếp thu qua môi trường học thuật trong nước và thế giới bằng nhiều con đường và nhiều kênh giao tiếp khác nhau, mỗi người đã tự mình tiếp biến và giao biến trong tiếp nhận để làm nên sự thực hành riêng trong lý luận và phê bình văn học, mang bản sắc và tiếng nói riêng của thế hệ mình. Sự đa dạng trong đời sống văn chương, học thuật như thế đã nói lên tinh thần dân chủ và khuynh hướng nhận thức tối đa của một nền lý luận phê bình lành mạnh, đang trưởng thành và hứa hẹn một thành tựu mới đồng hành, vươn lên cập nhật với nền lý luận phê bình văn học hiện đại/ hậu hiện đại trên thế giới. Dĩ nhiên là vẫn còn những so le và bất cập đối với không ít những thể nghiệm và thực hành không thành công. Còn một số trường hợp tròng trành, vòng vèo và chưa thật sự về đích hiệu quả .
3. Diễn giải bổ sung về hiệu quả nghiên cứu và tiếp nhận
Nhưng như một quy luật của sáng tạo và tiếp nhận, đó là bên cạnh việc kiến lập nên những thực thể sáng tạo (tác phẩm văn học) và thực thể tiếp nhận (công trình lý luận, phê bình văn học) – như là những khâu móc xích bản chất trực tiếp, cụ thể của quá trình văn học từ tác giả văn học đến tác phẩm văn học và độc giả văn học. Đến đây, nổi lên vấn đề cần nhận thức rõ để tránh mơ hồ. Đó là, với khâu móc xích bộ ba nói trên (tác giả, tác phẩm, độc giả chuyên nghiệp), nhiều người tưởng rằng đó chính điểm xuất phát (starting point) và là điểm đến cuối cùng (ending destination) cuả quá trình văn học mà không cần đến điều kiện cần và đủ nào khác nữa. Thực ra, không phải như vậy. Đời sống văn học, mà cụ thể là quá trình văn học/ tiến trình văn học không chỉ dừng lại ở điểm xuất phát và điểm đến trực tiếp như thế – dù rằng đó là khâu bản chất đầu tiên. Mà quan trọng là ở một nhân tố quan trọng khác nữa, nếu không muốn nói rằng đó là khâu/ điểm đến cuối cùng có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và tương lai của cả phong trào văn học/ tiến trình văn học. Tôi muốn nói đến khâu tiếp nhận của công chúng người đọc rộng lớn, nhưng họ không phải là những người chuyên nghiệp trực tiếp viết nên những trang phê bình, tiểu luận cụ thể nào để in trên mặt giấy hoặc trên các phương tiện truyền thông hàng ngày. Họ là những người thưởng thức và tiếp nhận, thụ hưởng văn học theo nghĩa thông thường – tiếp nhận gián tiếp/ không chuyên và được định hưởng thẩm mỹ qua các công trình nghiên cứu của các nhà lý luận phê bình chuyên nghiệp, cao cấp (đó là độc giả nói chung) hoặc tiếp nhận qua đọc và hiểu, giải mã tác phẩm nhưng không có điều kiện để viết thành văn bản lý luận phê bình thực thụ (đó là độc giả học sinh, sinh viên và các giảng viên văn học phổ thông các cấp). Vậy, lý luận phê bình phải ý thức để hướng về toàn bộ đối tượng người đọc như trên để trừu xuất và khái quát thành hệ thống lý thuyết, thành phương pháp tiếp cận lý thuyết, từ đó, vận dụng vào thực hành phê bình có hiệu quả.
Đến đây, có thể xác nhận/ xác định được sự hiện diện của một thế hệ trẻ đông đảo làm công tác lý luận phê bình văn học với những thành tựu ban đầu vững chắc, và hứa hẹn những tiềm năng hy vọng trong tương lai. Điều đó không hề là ảo tưởng như chúng tôi đã phân tích bên trên. Đến đây, thiết nghĩ không bàn gì thêm trước khi kết thúc bài viết. Nhưng, chúng tôi lại muốn nhìn nhận một hiện tượng thực tế, xem đây như là phần vĩ thanh cho bài viết ngắn này.
Đúng là lý luận, phê bình văn học đóng vai trò đúc kết quan trọng trong đời sống học thuật văn chương và sáng tạo văn chương, nó tác động trực tiếp đến sự phát triển của cả nền văn học. Và thực tế, nền văn học nước ta qua các giai đoạn, đặc biệt là giai đoạn từ Đổi mới đến nay, lý luận phê bình bám rất sát nguồn mạch sáng tác. Những tác phẩm (cả thơ và văn xuôi) có giá trị được ấn hành, liền có những bài viết (cả phê bình chuyên sâu và phê bình báo chí) lên tiếng và kịp thời có tiếng nói minh định, tác động và định hướng tiếp nhận thẩm mỹ tốt cho công chúng. Cả những tác phẩm của những nhà văn Việt Nam ở hải ngoại cũng như những tác giả, tác phẩm văn học dịch. Các phương tiện công bố cũng đa dạng: báo, tạp chí Trung ương và địa phương, kể các các phương tiện truyền thông, mạng internet, các website, các trang blog cá nhân… Nhờ đó mà chiếc cầu nối giữa tác phẩm và người đọc thông qua nhà phê bình chuyên nghiệp cũng nhanh, nhạy và có tác động trực tiếp.
Tuy vậy, căn cứ thực tiễn sáng tạo sôi động ở nước ta những thập niên qua, nhiều tác phẩm văn học có tiếng vang và dư luận trái chiều ra đời lại vắng tiếng nói thẩm định và kết luận của những nhà phê bình trẻ chuyên nghiệp (như tôi vừa điểm danh bên trên). Đó cũng là một thực tế khách quan. Vì các nhà phê bình lúc nào cũng ít hơn nhà sáng tác rất nhiều và không phải lúc nào họ cũng lập tức có các tác phẩm ấy trong tay, do khoảng cách không gian, do khâu phát hành co cụm từng miền, cũng có khi do sở thích, hoặc một vài lý do chính đáng nào đó ngoài văn học… Chưa kể những bài phê bình không còn tính thời sự công bố trên các phương tiện sách, tạp chí, báo và chuyên san. Nó xuất hiện muộn hơn vì phụ thuộc vào quá trình in ấn, định kỳ. Hơn nữa, tạp chí đâu phải nhiều và thuận tiện như phương tiện mạng. Chưa kể việc xuất bản định kỳ và số lượng ấn hành ít cũng có ảnh hưởng nhất định đến quá trình tiếp nhận. Và đó cũng là lý do chính đáng để bào chữa cho sự vắng mặt những trang viết cập nhật của họ trên văn đàn. Nhưng cũng cần thấy một thực tế khiếm khuyết chủ quan về sự thiếu vắng này. Đó là họ thường chỉ chú tâm, nghiêng về các hiện tượng văn học và không gian văn học có tính đỉnh cao và độc đáo; có nhiều người lại chọn tác gia, tác phẩm văn học nước ngoài. Những bài viết, công trình này thường xuất hiện sau, thiếu tính cập nhật/ thời sự vì họ muốn thận trọng và khoa học trong đánh giá và kết luận chính xác các giá trị bản chất của tác phẩm. Đó là điều đúng, nhưng bên cạnh đó, còn cả những tác gia, tác phẩm văn học khác, thì họ không kịp thời có tiếng nói trực diện. Một số người chỉ chú tâm vào những công trình dài hơi, trọng điểm, ổn định để yên vị. Họ chưa thực sự bám vào mặt bằng không khí văn học thời đương đại đang tiếp diễn. Có vài trường hợp rơi vào đao to búa lớn, vì cá nhân nhiều hơn là vì tranh luận học thuật. Hoặc có lúc, họ đứng bên lề những hiện tượng xôn xao văn học cá lẻ, đặc biệt là trước những tác phẩm “giả nghệ thuật” và những bài viết “giả/ ngụy phê bình”, phát ngôn không chính thống và thiếu tính học thuật của những cá nhân “không tên tuổi” trên các phương tiện internet, gây hồ nghi cho dư luận. Đa phần những bài viết ấy chưa qua khâu biên tập và tự họ post lên những trang mạng giao diện cá nhân, làm nhiễu thông tin và nhiễu định hướng thẩm mỹ cho người đọc. Những độc giả cao cấp, họ sẽ phân định được chất lượng và giá trị học thuật của bài viết, nhưng những độc giả phổ thông thì họ có thể bị đánh lừa. Vậy đây là chỗ để các nhà phê bình chuyên nghiệp trẻ lấp đầy những chỗ trống bằng tài năng của mình. Người đọc phổ thông cần những bài viết đúng đắn, định hướng nghệ thuật và thẩm mỹ tốt của những nhà lý luận phê bình trẻ chuyên nghiệp là yêu cầu chính đáng và dân chủ. Thiết nghĩ, với sự nhạy cảm nghề nghiệp của mình, các nhà lý luận phê bình trẻ nên phát huy hiệu quả trực tiếp và khắc phục những bất cập nói trên.
Dù vậy, nhìn chung vào bề mặt đời sống sáng tạo và học thuật văn chương thời hiện đại và đương đại ở nước ta, thì tiếng nói của các nhà lý luận phê bình trẻ, theo tôi là có trọng lượng và có tác động học thuật tích cực đến tiếp nhận và sáng tác văn học (những công trình dài hơi, giá trị của họ ngày càng xuất hiện nhiều). Họ đang nỗ lực làm tốt chức năng mỹ học tiếp nhận của mình với tư cách là những chủ thể phê bình chuyên nghiệp thời đương đại đang tiếp diễn. Tiềm năng và khát vọng đổi mới văn chương, học thuật của họ đang và sẽ thành hiện thực trong tương lai.
***
Là những bộ môn hợp thành của Khoa Nghiên cứu văn học, lý luận văn học và phê bình văn học có nhiệm vụ theo dõi, đánh giá, tổng kết văn học dân tộc từng thời kỳ, giai đoạn với phương pháp và đối tượng làm việc riêng. Đối tượng và quan hệ giữa Lý luận văn học, Phê bình văn học với Lịch sử văn học và Phương pháp luận nghiên cứu văn học có những đặc thù riêng và biến đổi theo từng giai đoạn nếu chúng xuất hiện những giới hạn và bất cập trước sự phát triển của đời sống cũng như trước nhu cầu tự thân của chính mình. Việc ngày càng có nhiều người tay ngang ngẫu hứng nhảy vào làm phê bình, điểm bình và nhận định văn học và không ít người ảo tưởng xem mình là những nhà phê bình thực thụ lại càng nhiều. Và nhất định trong loại người phê bình này, có hơn phân nửa là phê bình cảm hứng, không có phương pháp lý thuyết, thì sự hiện diện của thế hệ các nhà lý luận phê bình trẻ ở nước ta là dấu hiệu đáng mừng, biểu hiện sự trưởng thành của một nền văn học đang phát triển vững chắc. Lý luận và phê bình văn học trên thế giới hiện nay đang trên đà tiếp tục phát triển và thành tựu. Lý luận phê bình văn học hiện đại ở ta đã thực sự năng động và hội nhập, tiếp biến phê bình văn học thế giới một cách sáng tạo, đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng như một quy luật hiển nhiên, không có thành tựu nào lại nhất thành bất biến, mà luôn có phá và thay, có cố định và bổ sung/ đổi mới, có vận động và phát triển, có giới hạn và khắc phục giới hạn. Các nhà lý luận phê bình văn học trẻ Việt Nam hiện nay đã và đang đồng hành cùng cuộc sống và văn chương cũng như các hình thái ý thức xã hội khác để tiếp tục khẳng định vị trí và chức năng của mình trong việc giải mã những giá trị lớn của văn học quá khứ và hiện đại – đặc biệt là văn học đương đại theo trình độ, phương pháp tiếp cận tối ưu và đa dạng trong khả năng có thể của mình.
(vanvn.vn)