Truyền thuyết về một ngọn núi

30.12.2024
Nguyễn Nhã Tiên
Hệ thống những cụm núi nhấp nhô hư ảo trong mây bay, trải dài từ bờ nam sông Vu Gia giáp đến tận bờ bắc sông Thu Bồn, có thể quan sát lần lượt là các cụm núi: Hữu Niên, Thọ Lâm và An Bằng. Tất cả từng cụm nối nhau thành vòng cung dưới chân dãy Trường Sơn. Đứng vào một vị thế cao nhất phóng tầm mắt quan sát, có nhiều mái núi thoai thoải trải rộng về hướng đồng bằng vùng B Đại Lộc, tạo ra những mặt bằng phủ nhiều mảng màu sắc khá đẹp như: bằng Am, bằng Mua, bằng Sim, bằng Chuổi…

Truyền thuyết về một ngọn núi

Núi Bằng Am

Sở dĩ có những tên gọi như thế là vì trên từng mặt bằng nhấp nhô đồi dốc kia, hoa hoang cỏ dại lẫn cây rừng dường như cũng biết quần tụ nhau sinh sống theo tổ chức bầy đàn. Nơi mọc toàn những cây sim thì gọi là bằng sim, nơi mọc toàn cây mua thì gọi là bằng mua, tương tự như thế những bằng chuổi, bằng thông lớn nhỏ, dưới bàn tay thiên nhiên kỳ diệu gieo trồng và xác lập tuổi tên cho từng mái núi, quả đồi… Nhưng có một đỉnh núi, tự xưa nay không mang tên các loài cây cỏ, mà tên gọi là Bằng Am là bởi, trên cái bằng vừa rộng vừa cao chót vót kia, tương truyền ngày xưa có một vị tu sĩ đã lên tận chốn này dựng một cái am và ẩn tu nơi đây. Và vì Bằng Am thuở xưa ấy còn là một cánh rừng chỉ toàn là giống loài cây tùng (thông) nên núi còn có tên là Tùng Sơn. Và vị tu sĩ huyền thoại ẩn tu trên chốn non cao này được người đời truyền tụng là thầy Tùng Sơn.

Núi Tùng Sơn hay Bằng Am ở rìa phía bắc cụm núi Hữu Niên có độ cao non ngàn mét thuộc xã Đại Hồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Theo quốc lộ 14B, cách bờ nam đầu cầu Hà Nha khoảng một cây số, sẽ gặp một con đường đất đá mới mở dốc ngược lên đỉnh Tùng Sơn. Đây là khúc dạo đầu dang dở, lưu giữ dấu tích khát vọng của một cuộc phiêu lưu làm du lịch, mà xem ra có phần lãng mạn hơn là hiện thực của một dự án. Ngày nay, lên tận đỉnh non cao này, mới thấy trên mặt bằng nhấp nhô đồi dốc rộng có đến hàng trăm hecta, giờ chỉ còn một vạt rừng thông nhỏ thưa thớt tiếp cận với rừng già sau lưng.

Nếu như ở phía nam, núi An Bằng và một phần núi Thọ Lâm, từ bao đời nay cây dầu rái trên các vùng núi này là một phần đời sống của người dân địa phương với trữ lượng dầu rái khai thác phục vụ cho các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thì ở phía Bắc, núi Tùng Sơn - bằng Am chỉ là một cái trảng rộng mông mênh cây cỏ cùng với mây trắng lãng đãng bay qua ngày ngày. Chừng như núi non bí ẩn ấy, lúc nào cũng khơi gợi trong trí tưởng con người về những truyền thuyết bao quanh một nhân vật lấp lánh huyền thoại: Thầy Tùng Sơn!

Tôi không rõ lắm luận chứng thuyết minh của những nhà làm du lịch, khi mở ra dự án trên đỉnh Tùng Sơn, người ta đề cập đến cảnh quan môi trường sinh thái, hay là muốn khai thác cái nét nổi bật của nhân vật - thầy Tùng Sơn huyền thoại được tô điểm thêm truyền thuyết, xem đấy là đặc điểm có khả năng kích thích mời gọi du khách. Với nhãn quan thường nghiệm thì quang cảnh trên đỉnh Tùng Sơn không có ưu thế như nhiều vùng núi khác. Gọi là núi tùng, núi thông nhưng bây giờ hầu như chỉ thấy nhấp nhô những mái đồi lau lách và cỏ dại. Về khí hậu, dẫu trên cao có mát mẻ, nhưng xem ra không khác nhiều so với vùng đồng bằng dưới chân núi, kiểu như đặc điểm khí hậu nổi bật ở Bà Nà hay Bạch Mã. Vậy thì thế mạnh của vùng núi này, để mở ra một dự án du lịch trước hết có lẽ nên bắt đầu từ việc trồng rừng, đặc biệt là cây thông, cây tùng để Tùng Sơn lại phủ xanh đúng như tên gọi của nó.

Cũng có thể sự lãng mạn của trí tưởng dễ gieo vào tâm hồn người ta niềm xao xuyến về một nhân vật huyền ảo hư thực: thầy Tùng Sơn. Vâng, những câu chuyện tương truyền về ngài Tùng Sơn thuở xưa tu trên non cao bằng Am, ngày ngày ngài xuống núi phát thuốc cứu chữa người dân quanh vùng bị bệnh tật. Đến một ngày nào đó, thầy Tùng Sơn tự thấy sức già nua ốm yếu, ngài bèn gọi đệ tử lại dặn dò: “Khi ta qua đời, các con nhớ đưa nhục thân ta vào đặt trong hang đá sau am”. Và đúng như lời thầy Tùng Sơn dặn, một đêm ngài viên tịch, các đệ tử đã đưa nhục thân thầy vào đặt trong hang đá. Sáng hôm sau các đệ tử vào hang xem, kỳ lạ thay, đã thấy mối đùn lên thành ngôi mộ lớn. Địa linh núi Tùng Sơn vang danh từ đó. Trong bài ký “Đài Sơn tăng truyện” của cụ Cử - Lương Thúc Kỳ (Thi đổ cử nhân khoa Canh Tý 1900), quê ở làng Hà Tân, huyện Đại Lộc, người mà thuở xưa lúc còn sinh thời từng kết bạn giao du với thầy Tùng Sơn, đại ý bài ký cụ Cử đã mô tả: “Mùa Hạ năm Giáp Ngọ (triều vua Thành Thái), có một ông già dung mạo siêu phàm, từ phương xa đến làng Hà Tân thì dừng bước. Thấy nhân dân trong vùng đau ốm bệnh tật quá nhiều, ông cất công vào rừng tìm các loại cây thuốc hái đem về làng chữa trị cho dân. Ở lại trong làng một thời gian, ông đã tìm đường lên núi Đài Sơn lập am tu luyện. Đài Sơn là một khu rừng thông rợp bóng mát, có hang đá sâu và khe suối mát, hoa cỏ ngát mùi hương. Nhân dân trong các làng chung quanh dưới chân núi lên Đài Sơn xin thuốc thường thấy ngài Tùng Sơn ngồi tọa thiền…”. Theo tác giả bài ký thì ngài Tùng Sơn là một nhân vật có thực. Thời ngài chưa xuất gia tu hành, thầy Tùng Sơn đã từng sang Pháp học nghề chữa máy móc. Khi về nước, ông tâu lên vua xin sửa đổi một số điều luật để canh tân đất nước, nhưng triều đình Huế đã bác bỏ. Nhìn dân tộc trong cảnh tối tăm nô lệ và hoài bão canh tân đất nước không thành, ông lánh đời quy ẩn, và chọn Đài Sơn (tức Tùng Sơn) lập am tu hành. Kể từ đấy cho đến ngày thầy Tùng Sơn viên tịch, và cho đến mãi bây giờ, ngài trở thành nhân vật huyền thoại lung linh trong chuyện kể dân gian. Và núi Tùng Sơn cũng vì thế trở thành một vùng địa linh trong tâm tưởng con người.

Nghe đâu, những năm vào quãng thập niên tám mươi của thế kỷ trước (thế kỷ 20), có người đã lên đỉnh Tùng Sơn xây dựng lại cái am thờ thầy Tùng Sơn, bày tỏ lòng ngưỡng vọng người xưa. Nhưng không hiểu vì lý do nào đó lại có người tháo dở đập phá. Những năm tháng vừa bước qua khỏi cuộc chiến tranh, thời gian ấy tôi cũng có một vài lần có mặt trên vùng núi non này. Thực lòng, vào những tháng năm đầy dẫy khó khăn của cái thời toát mồ hôi áo cơm từng bữa đó, những chuyến đi như thế chẳng phải du nhàn ngoạn cảnh, hay vì lòng tưởng vọng gì, mà cốt là vì đời sống. Chúng tôi phải vào rừng đốn cây về xây dựng lán trại, nhà ở. Trên bước đường làm người “sơn tràng” ấy, bước chân lạc đường lạc lối đã dẫn dắt chúng tôi tới bằng Am - Tùng Sơn. Hồi ấy, đường 14B, đoạn từ bến phà Hà Nha đi qua vùng mỏ than Ngọc Kinh chưa mở, chúng tôi thường bắt đầu từ truông Chẹt băng qua Cấm Mùn, từ đây leo lên các dốc núi cao, vượt qua những bằng Mua, bằng Sim. Và cao nhất, hiểm trở nhất là vượt dốc Dạo. Mà nào phải chỉ có trai tráng không đâu, các bạn gái chân yếu tay mềm, có người tiểu thư kiểu “cành vàng lá ngọc” nữa, cũng thành những người “sơn tràng” khỏe khoắn không kém! Có những chiều từ rừng sâu quay về, cả bọn quây quần giữa Tùng Sơn thông reo gió hú, rồi lãng mạn ca hát véo von “…Chiều hành quân ngang những đồi sim. Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…”

Hơn ba mươi năm sau, từ con đường đất đá mới mở của dự án du lịch Tùng Sơn đã cám dỗ bước chân tôi trở lại núi non này. Tùng Sơn bây giờ không xanh biếc đại ngàn như ngày xưa. Dăm ba vạt cây săng lẻ chen với cỏ lau lơ thơ, và vạt rừng thông nhỏ lưa thưa còn lại sát với ngọn núi tưởng như lúc nào cũng vọng lên một thứ thanh âm mênh mang hoài cổ. Tôi không rành cho lắm về công việc mở mang du lịch. Nhưng dự cảm của một kẻ hành hương mách bảo với tôi rằng: nuôi dưỡng màu xanh cho đất thì đất trả ơn, nhược bằng cứ cày ủi san phẳng lên tất cả, rồi mông má lên mình nó những câu chuyện hoang đường, cổ tích giả, truyền thuyết giả, thậm chí cho đến lễ hội giả, hệ quả của nó là sự phản cảm chẳng thể làm xao xuyến lay động được tâm hồn ai.

Đất sa mạc, đất cằn cỗi nông cạn những tâm hồn, người ta nhìn vào đấy sẽ nhận ra chủ nhân của nó là ai. Vì thế, nếu mở ra dự án cho du khách có dịp hành hương lên đỉnh Tùng Sơn, theo tôi công việc đầu tiên, có lẽ nên bắt đầu từ việc trồng rừng. Như thiên nhiên đã từng sinh thành ra một non cao Tùng Sơn bạc ngàn thông reo gió hú. Ẩn xa mờ trong mây trắng, dưới rặng thông bên vách núi là cái thảo am của vị thiền sư Tùng Sơn huyền thoại. Đất lấp lánh những huyền thoại, truyền thuyết, đất tươi xanh sức sống những giá trị văn hóa lịch sử, đất ấy mới biết níu chân người.

(Tạp chí Non Nước số 321-322)