Nhà văn Thanh Quế và ký ức một thời máu lửa
Tập sách với dung lượng khoảng 250 trang, được tác giả chia thành hai phần. Phần 1 mang tên “Những bước chân năm tháng” và phần 2 “Chân dung nhà văn - chiến sĩ”.
Chia làm hai phần tách biệt, song tất cả đều là những kỷ niệm đời lính mà cả đời nhà văn Thanh Quế luôn khắc ghi. Nơi đó có những kỷ niệm vui, có những khoảnh khắc hào hùng và có cả nước mắt rơi xuống để đưa tiễn những con người ký thác đời mình vào lòng đất mẹ.
Ký ức đời lính
Thời điểm mở đầu cho những hồi ức ấy là năm 1969 và kết thúc vào năm 1975 với chiến thắng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Câu chuyện bắt đầu khi tác giả đứng ở dốc Ngọc Hà (Hà Nội) vào năm 24 tuổi để xin được về Nam tham gia kháng chiến. Những ngày này, nhân vật trữ tình càng thêm da diết nhớ quê hương và nóng lòng được trở về bên kia vĩ tuyến 17.
Chính tâm tư ấy đã khơi lại những ký ức của nhà văn từ những ngày tấm bé ở Tuy An (Phú Yên) đến khi tập kết ra Bắc. Dòng thời gian từ năm 1954 quay trở lại thực tại năm 1969, rồi tuyến tính chạy theo chiều kim đồng hồ đến những ngày người lính Phan Thanh Quế khoác ba lô hồ hởi “Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước”.
Trong phần này, tác giả kể về kỷ niệm buồn vui của tuổi thơ, chặng đường đầu sáng tác, những lần ân hận vì lầm lỗi… Nhưng dường như với nhà văn Thanh Quế, những ngày tháng ở chiến trường vẫn làm ông bận tâm hơn hết. Hơn 2/3 nội dung của phần 1 kể về cuộc kháng chiến gian khổ với đau thương, mất mát mà ông là người chứng kiến, tham gia.
Ký ức ấy là những ngày đầu hành quân cực nhọc trên đỉnh Trường Sơn. Ở đó có những người lính trẻ với tinh thần hăng hái, ý chí quyết tâm vượt qua chặng đường gian khổ để chiến đấu bảo vệ quê hương.

Trong tác phẩm cũng có rất nhiều chi tiết cảm động về sự anh dũng của những người lính ngã xuống với sự tiếc thương của đồng đội, hay đơn giản chỉ là những khi nghĩ về đồng đội, nghĩ về cơ hội gặp lại sau này.
Có thể thấy rằng, nhà văn Thanh Quế đã tái hiện một chặng đường chống Mỹ ở Khu 5. Ở đó, không có quá nhiều câu chuyện về các trận chiến, mà tác giả chủ yếu tập trung nói về kỷ niệm của mình với đồng đội, đồng thời khai thác những khía cạnh về tâm hồn của những người lính, thậm chí là nhìn trực diện vào những điều mà trước đây ít tác giả nào dám viết...
Những gương mặt văn nghệ
Tác phẩm cung cấp cho bạn đọc tư liệu quý giá về những nhân vật có vị trí quan trọng trong nền văn học cách mạng nói riêng và văn học Việt Nam nói chung như: Ca Lê Hiến, Thu Bồn, Nguyễn Thi, Chu Cẩm Phong, Phan Tứ…
Tác giả bài thơ “Đằng trước có Mỹ lết” không tập trung vào tiểu sử, không nói quá nhiều về tác phẩm hay ngợi ca quá mức. Ông như một người thợ nhiếp ảnh ghi lại những khoảnh khắc đời thường, bình dị của những người bạn văn chương ấy rồi tổ chức thành một buổi triển lãm mang tên “Chân dung nhà văn - chiến sĩ”.
Đọc tác phẩm, chúng ta như lần giở thêm những trang đời chưa từng được biết của các nhà văn, nhà thơ ngày ấy. Đơn cử như nhà thơ Lê Anh Xuân. Ai cũng biết ông có một chuyện tình với em gái nhà văn Anh Đức. Nhưng chỉ khi nhà văn Thanh Quế mách lại thì ta mới “ồ” lên rằng, hóa ra vào năm 1964, trước khi về Nam, chàng trai Ca Lê Hiến đã dặn nhà thơ Thanh Quế nhớ kỹ là vào Nam, anh sẽ lấy bút danh Lê Lan Xuân, đọc ngược lại tên cô Xuân Lan (em gái nhà văn Anh Đức). Và sau này, có thể ông đã dùng chữ “Anh” trong bút danh Anh Đức kia để đặt cho mình một tên mới là Lê Anh Xuân...
Tất cả nhân vật được nhà văn Thanh Quế kể lại, đều được trao tặng (hoặc truy tặng) Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật. Chính vì vậy mà trong tác phẩm, ta còn thấy nhà văn Thanh Quế xoáy sâu vào tinh thần lao động sáng tạo của các nhà văn. Họ đi, từ cầm bút đến cầm súng, qua phố, qua làng, qua từng chiến hào, họ đều ghi nhớ những câu chuyện hay, tìm những chi tiết đắt giá để đưa vào tác phẩm.
Không bút pháp phóng đại, không tâng bốc hay thiên vị, nhà văn Thanh Quế mang lại cho bạn đọc những bức chân dung rất rõ nét về những nhà văn Việt Nam mà ông từng tiếp xúc trên chiến trường ngày ấy. Tập sách chân thực và rất cuốn hút. Bởi lẽ đó là những câu chuyện lần đầu tiên được kể, và được kể lại bằng cảm xúc chân thành, trân trọng nhất.
Tới đây, tôi lại nhớ mấy dòng mà nhà văn Thanh Quế viết về nhà văn Nguyễn Thi: “Tôi thấy ông Thi viết chi chi, thật thà quá, không hư cấu, không văn chương chi cả”. Nhưng có lẽ khi đã ở tuổi 80, trải qua cuộc chiến khốc liệt, nhà văn Thanh Quế đã thấm thía cái hay, cái đẹp của sự giản dị ấy. Bởi giờ đây, những gì ông viết cũng “chi chi, thật thà quá, không hư cấu”. Mà cần gì hư cấu, khi con đường ngắn nhất để văn chương đi vào lòng bạn đọc là con đường đi từ trái tim đến trái tim.
(baodanang.vn)