Trứng Rồng - Uyên Nhi

11.05.2015

Trứng Rồng - Uyên Nhi

Vì mỗi ngôi sao là một linh hồn, những ngôi sao đi ra từ một cái cây, cây thì mọc ven hè phố, cũng có thể là cây đã lâu năm, đã thành cổ thụ, cũng có thể cây được trồng sáng hôm nay, sau khi người phu quét đường cố gắng dọn dẹp thật sạch khoảng lề vắng. Và cứ sau một trận mưa, lại có vài ngôi sao trú ngụ dưới tán lá. Chúng sợ những cơn giông, bởi sấm sét luôn là một thứ gì đó rất xa lạ với những linh hồn bé bỏng và yếu đuối. Bà muốn nhìn thấy những ngôi sao của bà trong chiếc hộp gỗ trắc, bà chỉ thích gỗ trắc, một loại gỗ tỏa ra mùi thơm dịu, không hắc như gỗ huỳnh đàn và cũng không phải lo bị mất trộm cho mấy bởi đây không phải là loại gỗ mà người ta đổ xô đi tìm, mất ăn, mất ngủ, thậm chí mất mạng vì nó. Những thứ gì khiến người ta có thể mất mạng thì không gần gũi với bà. Đúng hơn là không gần gũi với những linh hồn vốn yếu đuối và thuần khiết.

“Bà muốn nhìn thấy cái trứng rồng, con hãy cố gắng tìm ra nó!”.

Bà đã nói với mi như thế trong lúc nằm và nhìn chăm chú vào quả cầu thủy tinh. Bà bảo rằng trong quả cầu chứa những dòng sông, có cả ngọn núi và những đốm lửa cháy về đêm của các tiều phu. Và bà cũng nhìn thấy những bông hoa vạn thọ tháng chạp trổ bông vàng rực, mùi hương của nó làm bà thấy nhẹ nhõm, phía sau vạt hoa vạn thọ là luống cúc tần mà ông đã gieo từ nhiều năm trước. Chúng vẫn luôn trổ bông và tỏa mùi hương đằm thắm, hình như không ai nhận thấy điều này, chỉ riêng bà nhìn thấy. Mi gật đầu, tỏ ra đồng cảm với mùi hương cúc tần của bà. Và mi cầu trời phù hộ, bà chỉ cần nhớ ngần ấy thôi, đừng nhớ xa thêm nữa.

Nhưng cho đến thời điểm này, mi vẫn chưa mường tượng ra được cái trứng rồng mà bà nhắc đến là cái gì, nó có thật hay không. Bởi mi đã qua khỏi cái cảm giác nửa tin nửa ngờ trước đây. Mi không còn tin rằng đó là câu nói lảng của bà nữa. Bà có thể lảng mọi chuyện, có thể quên nhiều thứ. Nhưng có hai thứ làm mi tin rằng nó chắc chắn vượt qua sự lú lẫn của thời gian, đó là tiền và trứng rồng. Nếu như với tiền, bà đã quên hẳn những con số từ rất lâu, chừng mười lăm năm thì phải, kể từ ngày bà đốt tờ giấy báo tử của cậu và hòa nó vào ly nước rồi nốc một hơi cho đến sặc sụa, sau đó bà ôm mền, ôm gối đi ra đường, ai hỏi bà đi đâu, bà cười bâng quơ, nói rằng dạo này trứng rồng dễ bị đánh cắp lắm, bà phải đi tìm nó.

Tuy không thể đếm được thứ tự từ một đến mười nhưng bà có thể phân biệt được đâu là tờ năm trăm đồng, đâu là tờ năm trăm ngàn đồng hoặc đâu là tờ hai mươi ngàn đồng. Cũng như việc bà luôn tỏ ra hoài nghi mỗi khi mi dắt những thằng bạn không mấy lương thiện mặc dầu vẻ bề ngoài của nó khá lịch lãm, lúc nào cũng giày đen láng cón, đeo cà vạt, kính râm hay kính cận, nói năng từ tốn và lúc nào cũng tỏ ra đạo mạo, chuẩn mực. Bà bảo rằng có thể chúng nó sẽ là những kẻ trộm trứng rồng đầu tiên và chúng sẽ mang vào bàn nhậu như một thứ đặc sản cao cấp, quốc hồn quốc túy. Bà thấy lo cho chúng, bởi chưa ai ăn trứng rồng có thể thoát chết sau chín tháng mười ngày. Mi phì cười khi nghe bà nói con số ngày tháng mà người ta phải chết vì ăn trứng rồng, nó rất trùng hợp với thời gian hoài thai và ra đời của một đứa bé, một sự trùng hợp có thể xem là khôi hài mà cũng có thể nhận thấy ẩn ý sâu xa gì đó.

Đôi khi, mi nhìn thấy trong ánh mắt già nua của bà lóe lên những tia sáng rất kì dị. Cũng có thể đó là ánh khúc xạ từ quả cầu thủy tinh, nhưng có vẻ như không phải thế. Bà nói rằng bà nhìn thấy ở phía bên phải của bà là biển, bên trái của bà là ngọn núi nơi quê nhà, nơi có những con đường mòn của tiều phu và những con chim rừng thoắt ẩn thoắt hiện. Phía sau lưng bà là con sông xanh ngắt, còn trước mặt bà, ít khi nào bà nói gì, nếu mi có hỏi thì bà im lặng nhắm mắt hoặc cười tủm tỉm, nói rằng trước mặt bà là mi, chỉ có mi thôi, không còn thứ gì khác. Những lúc như thế, mi cười thầm “lảng đểu thế!”. Và đương nhiên mi cũng chẳng dại gì nói thật cho bà biết là không có con sông nào cả, không có cánh rừng nào cả, cũng không có ngọn núi nào cả, bà cháu chúng ta đang sống trong một căn hộ chung cư, ở tầng sáu, nơi này, nếu bà nhìn lên, sẽ không có trời xanh mà là trần nhà, trên trần nhà của chúng ta là nhiều sàn nhà và trần nhà khác. Sau lưng của bà không phải là con sông xanh ngắt như bà nhìn thấy đâu, nhưng dẫu sao thì bà cũng đúng một phần, cũng có con sông, vẫn còn xanh ngắt, trên lưng con sông cõng một bến cảng đủ lớn để trồng vào đó những ngọn núi, những rừng hoa sim và các cội cây mà bà hằng tưởng.

Đương nhiên, mi cũng không bao giờ nói cho bà biết rằng bên trái của bà không có ngọn núi nào cả, cũng không có tiếng chim rừng lảnh lót, thoắt ẩn, thoắt hiện bóng dáng tiều phu như bà nghĩ mà là căn phòng của một con mụ nạ dòng mi rất căm ghét. Đương nhiên sự căm ghét của mi cũng dễ thông cảm, với một người thiếu ngủ như mi, bất kì tiếng động nào đó trong lúc mi thiu thiu ngủ cũng có thể làm mi uất giận, con mụ cứ nhằm lúc một hai giờ sáng, mi ngủ chập chờn sau khi dậy khuấy sữa cho bà, con mụ này bắt đầu rên, tiếng rên to dần của mụ khiến mi không thể nào chợp mắt. Nhiều lần mi muốn sổ toẹt vào mụ nhưng không có lý do. Cũng như nhiều lần mi muốn đi kiện mụ nhưng cũng không có lý do nốt. Vì không ai có thể đi kiện tiếng rên được, con mụ có quyền nói rằng vì đau nhức cơ thể, ê ẩm chân tay, mụ rên, có gì mà kiện. Đương nhiên khi nói như thế, mụ có thể giấu bớt những tiếng rên phụ họa, bởi âm vực của loại rên phụ họa này thay đổi liên tục. Những lúc bực tức và không ngủ được, mi lại nghĩ rằng căn hộ bên trái của mình sẽ là bên phải của căn hộ khác, vậy thôi, kiện làm gì. Nhưng khi nghĩ đến bệnh điếc của lão chủ căn hộ đó, tự dưng mi thấy vừa tức giận vừa buồn cười.

Đương nhiên, mi cũng không bao giờ kể cho bà biết rằng bên phải của bà không phài là biển, biển cách xa căn hộ của chúng ta đến vài cây số và cũng không nằm phía bên phải bà ạ! Biển không có bên phải, đó là thánh đường cùng với tháp chuông cao vòi vọi, trên đỉnh tháp chuông là một con gà trống bằng thạch cao hay xi măng gì đó. Dưới sân giáo đường có những chiếc ghế đá mà thi thoảng mi chở nàng đến đó để ngồi chờ nàng cầu nguyện. Nàng cầu nguyện điều gì thì mi không thể biết nổi, nàng có nói với mi là nàng xin Chúa cho mi và nàng sớm cưới nhau. Kết quả là cho đến bây giờ, sau hơn mười lăm năm, mi và nàng cũng chỉ gặp nhau mỗi chiều thứ Bảy và Chúa Nhật, chở nàng đi nhà thờ để nàng cầu nguyện. Và những người đàn bà bán vé số thi thoảng ghé đến ngồi cạnh mi, họ không cầu nguyện, họ mời mi mua một sự may mắn. Mi từ chối, họ thở dài, bước đi mỏi mệt.

“Bà muốn nhìn thấy cái trứng rồng, con hãy cố gắng tìm nó…”.

Bác sĩ nói rằng thời gian ở lại trên dương thế của bà chẳng còn bao lâu nữa, mi hãy cố gắng chịu đựng điều này như một ân sủng mà Thượng Đế nhân từ đã ban cho. Mi gật đầu cám ơn ông, mi không có cảm xúc nào cả, bởi dường như những thứ ấy bây giờ đã quá xa lạ với mi, mục tiêu của mi là làm sao để tìm ra cái trứng rồng cho bà. Cái trứng của một loài không có thật, bà nói như vậy là ý nghĩa gì đây? Và mi làm thế nào để đạt được tầng số ý niệm cùng với một người đã trải qua gần một trăm năm va đập với đời sống, mọi ý niệm đã hóa thạch bỗng bừng sáng khi người ấy biết rằng chỉ trong chốc lát nữa thôi, mọi sắc màu sẽ tan biến, mây trời, dòng sông, ngọn núi phía sau nhà hay ngôi thánh đường với tháp chuông vòi vọi, mái chùa ẩn mình dưới gốc đa, những tiếng bò kêu ngoài đồng cỏ hay cả tiếng của mi nói cười… Tất cả sẽ tan biến theo cách của nó trong ý thức của bà, mi vẫn không thể mường tượng ra được cách tan biến của nó cũng như mi càng không thể mường tượng ra ý niệm về cái trứng rồng là gì. Làm sao để tìm một cái trứng rồng?

Bà từng nói với mi rằng thành phố của bà rất khác với thành phố của mi. Thành phố hay thôn quê không có hình dạng như đang thấy, mọi thứ hình dạng như đang thấy cũng chưa hẳn là đang thấy. Thành phố của bà chỉ có hai con đường, một chiếc cầu vồng, một cổ viện và một chiếc cầu rất cũ, bắc qua đoạn sông có nhiều bãi biển, thành phố của bà có mùi cá kho dưa mỗi trưa mùa hè, mùi bánh xèo, bánh mì nướng những tối mùa đông, mùi da thuộc và mùi xăng thơm ở các hiệu giày vào buổi tối cuối năm, mỗi người có một thành phố nằm sâu trong tâm hồn. Nơi ấy, nơi thành phố mắc kẹt giữa thời gian có những tháng ngày sầm uất và phồn thịnh cũng như những tháng năm băng giá, kiệt cùng mà chỉ có hàng cây, bóng nhà hiu hắt nắng và những bóng người đi ra từ gốc cây mới thấu hiểu. Và nơi ấy có những cái trứng rồng.

Lại trứng rồng! Mi vẫn không tài nào hiểu được ý nghĩa của cái trứng rồng bà muốn nói với mi, và cũng có thể, chỉ có bà cùng với thành phố có những cái trứng rồng của bà là có thật, mọi kiến thức của mi về lịch sử nòi giống hay vạn vật có đôi khi chưa hẳn chính xác bằng bà. Nhưng mi biết tìm những cái trứng rồng ở đâu? Thời gian của bà trên dương thế đã đếm ngược, mi biết, còn nhiều thứ bà muốn nói, nhưng không ai nghe bà ngoài mi và bốn bức tường chung cư. Các dì thì ở xa quá, các cậu thì ít để ý đến bà, họ rất bận, họ nói thế. Mi cũng biết điều này, họ bận lo sự nghiệp họ đang theo đuổi, và họ ngại gặp nhau trước mặt bà bởi họ còn quá nhiều chuyện cần phải được minh bạch trước bà nhưng… Lại nhưng, giá như không có chữ đó thì hay biết mấy! Cuối cùng, cũng vì chừng ấy mà bà phải rời bỏ căn nhà có mảnh vườn rộng, rời bỏ mọi thứ mà ở đó bà rất yêu quý, có cả những con cá từ đám mây mùa hạ đậu xuống mặt đất theo cơn mưa, chúng bơi tung tăng vào mùa đông và chui vào lòng đất vào mùa hạ. Bà nhớ thế, và bà không muốn quay lại cái nơi ăm ắp kỷ niệm và tiếng ồn ào, cãi cọ ấy nữa. Bà đã nói thế.

“Phải tìm cho được những cái trứng rồng, kẻ nào ăn phải trứng rồng sẽ đổi thành giống máu xanh…! Hãy tìm…”.

Bà nói, giọng nói yếu ớt của bà có chút gì đó quyết liệt, khẩn nài. Mi chẳng biết tính làm sao. Trong lúc nói, bà vẫn chằm chằm nhìn vào quả cầu thủy tinh, thi thoảng, bà nhoẻn miệng cười một mình. Mi không dám đứng gần bà bởi nếu mi chưa đi ra khỏi phòng, bà sẽ nghĩ rằng mi không tôn trọng yêu cầu cuối cùng của bà. Nhưng mi chẳng biết làm sao tìm ra cái trứng rồng cho dù đó là ý niệm. Mi cố xâu chuỗi những vấn đề bà hay lẩm nhẩm, từ những bóng người trong gốc cây đến người Sao Hỏa, bà từng bảo rằng người Sao Hỏa là có thật, họ không xa lạ gì với chúng ta, họ chính là tổ tiên của chúng ta đã mất, họ là hóa thân của tổ tiên chúng ta, họ hiện hữu trong mọi ngóc ngách đời sống bằng một thứ vận tốc của riêng họ, bà từng được người Sao Hỏa tặng cho một cái trứng rồng, đó là thứ bảo bối để giữ thành phố của bà không bị những con khủng long tàn phá. Và đương nhiên chúng cũng tàn phá từ những ý niệm. Nói đến đây, bà im lặng, không nói gì thêm. Bà nói rằng nếu nói thêm nữa, sẽ làm ảnh hưởng đến ngọn núi phía bên trái sân nhà và bờ biển phía bên phải nhà cũng sẽ khô cạn, bà cũng không muốn dòng sông xanh ngắt sau lưng bà trở nên vẩn đục.

“Con hãy…!”.

Bà thoi thóp thở, cố gắng nói câu này trước khi ra đi. Mi vẫn chưa hiểu được trứng rồng là gì. Mi ứa nước mắt, nhìn bà một chập rồi niệm Nam Mô A Di Đà. Các dì và các cậu về làm đám tang cho bà. Ngày thứ nhất, họ bàn nhau kế hoạch thuê dịch vụ tang hiếu. Ngày thứ hai, họ ngồi lại với nhau kiểm số tiền đã thu vào do người phúng điếu. Ngày thứ ba, đưa bà ra nghĩa trang, họ hẹn khi về sẽ tiếp tục bàn luận. Mi không hiểu họ sẽ bàn những gì. Trưa, mọi người đều than nắng và bỏ về, mi ngồi lại với bà nơi nghĩa trang vắng, mi không muốn bà cô đơn một mình, đây là lần cuối mi bên cạnh bà, dù là…! Mi ứa nước mắt.

Tối đến, thắp cho bà một nén nhang và chất lửa sưởi cho bà, xong, mi im lặng ra về. Ở nhà, câu chuyện bàn tán của mọi người vẫn chưa xong, họ chuyển từ tranh luận sang cãi vã, thậm chí sỉ vả nhau. Trung tâm của sự sỉ vả là ngôi nhà có khu vườn rộng thênh thang do cậu út quản lý bấy lâu nay. Mọi người không đồng ý với di chúc dành cho cậu út bởi theo họ, di chúc này không hợp pháp, nó được lăn dấu tay, cũng không có công chứng và có một sự vô lý là bà biết viết, biết ký, tại sao bà không ký mà phải lăn dấu tay. Hơn nữa, di chúc lập vào thời điểm bà đã bị đãng trí… Nói chung, mọi người không đồng ý cho cậu út thừa kế và buộc phải chia đều phần với nhau. Thấy mi xuất hiện, họ xoay sang căn hộ chung cư, họ buộc mi phải trả lại căn hộ mà theo họ đó là tiền của bà đưa cho mi để mua. Mi im lặng, vì đến nước này, mi đã ngờ ngợ hiểu ra vì sao bà lại nôn nóng tìm trứng rồng và chiếc hộp gỗ trắc.

“Con…!”.

Tiếng kêu yếu ớt của bà làm mi tỉnh giấc. Mi nhớ ra là mình đã ngủ quên, nằm mơ từ lúc chiều đến giờ. Mi nói như chạy trốn: “Con tìm ra cái trứng rồng rồi!”. Bà im lặng, hơi mỉm cười. Mi nói thêm với bà là chiếc hộp gỗ trắc nằm trên bàn thờ tổ, ít ai để ý đến chiếc hộp này kể từ ngày cậu út mở nó ra chỉ thấy mấy viên sỏi nhiều màu. Cậu nghĩ rằng đó là bùa chú gì đó của ông tổ nên chẳng dám đụng tới nữa.

“Con nhớ… đập viên sỏi ra. Nó không phải là viên sỏi!”. Bà đã nói vậy trước khi nhắm mắt. Và đám tang của bà cũng diễn ra giống y hệt giấc mơ ban chiều của mi. Chỉ có một điều, sau một hồi cãi vã, thậm chí sỉ vã nhau, các cậu và các dì trở nên im lặng khác thường khi mi cho họ nhìn thấy những cái mà bà gọi là trứng rồng. Họ không còn màng đến chuyện tranh giành nữa. Hình như là họ bắt đầu biết khóc!

Nhiều lần mi nằm mơ thấy bà chống một chiếc phao cơm bơi lòng vòng trong con mương nhỏ bọc quanh khu vườn cũ. Chỉ bơi và im lặng, bà không nói gì, mi gọi bà khản tiếng nhưng hình như bà không nghe. Hai mái chèo bà dùng để bơi chiếc phao là đôi đũa bằng gỗ mun đang thờ bà trên bàn linh. Và thi thoảng, những ngôi sao trượt theo tàu lá chuối, đậu xuống vai bà. Bà lại lấy những viên đá nhiều màu và mở ra, vài ngôi sao lặng lẽ chui vào chiếc vỏ trứng. Và cuộc du hành của bà lại tiếp tục.

U.N